án lệ hoa kỳ

Hội thảo lấy ý kiến góp ý đối với 14 dự thảo Án lệ. Ngày 26/5, TANDTC tổ chức Hội thảo lấy ý kiến góp ý đối với 14 dự thảo án lệ thuộc các lĩnh vực hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, hành chính. Phó Chánh án TANDTC Nguyễn Văn Tiến chủ motor scoopy tidak bisa distarter dan diengkol. Án lệ còn được coi là luật do thẩm phán tạo ra judge-made law. Về bản chất, án lệ là tập hợp các nguyên tắc và học thuyết pháp lý được tìm thấy trong các quan điểm của tòa án khi giải quyết các vụ việc cụ thể. Khi giải quyết các vụ việc, chủ yếu là quyết định các vấn đề pháp lý trong quyết định, bản án sơ thẩm bị kháng cáo, các thẩm phán nhân danh tòa án phúc thẩm hoặc tòa án tối cao đưa ra quan điểm về vấn đề pháp lý này. Quan điểm của thẩm phán được thể hiện ở các lập luận pháp lý legal reasoning. Cấu trúc của lập luận pháp lý bao gồm Bước thứ nhất Các thẩm phán đánh giá chứng cứ của vụ việc. Tại cấp sơ thẩm, tòa án sơ thẩm thông thường là bồi thẩm đoàn sẽ đánh giá tính đúng sai của chứng cứ nhằm xác định đâu là sự thật khách quan. Còn tại phiên tòa phúc thẩm và giám đốc thẩm, tòa án không xác định sự thật khách quan mà chỉ phân tích những diễn biến, tình tiết xảy ra trên cơ sở hồ sơ, chứng cứ đã được xác định ở cấp sơ thẩm. Bước thứ hai Tòa án xác định qui phạm pháp luật áp dụng cho vụ việc. Các qui phạm pháp luật có thể được chứa đựng trong văn bản qui phạm pháp luật do cơ quan lập pháp liên bang, bang ban hành, cũng có thể là trong qui chế hành chính hoặc là các nguyên tắc hoặc học thuyết pháp lý được tìm thấy trong các bản án, quyết định trước đó của tòa án. Bước thứ ba Tòa án cần phải phân tích để xác định xem liệu rằng qui phạm pháp luật sẽ được áp dụng như thế nào với chứng cứ của vụ việc. Đây có lẽ là bước khó khăn nhất. Để trả lời câu hỏi này, thẩm phán sử dụng các phương pháp lập luận sau forms of legal reasoning Phương pháp tam đoạn luận deductive reasoning hoặc syllogistic reasoning Theo phương này, lập luận được chia làm ba mệnh đề mệnh đề 1, mệnh đề 2 và mệnh đề 3 kết luận. Ví dụ A đẩy B gây thương tích cho B. Để kết luận A gây thiệt hại với lỗi cố ý thì ngoài chứng minh có thiệt hại gây ra bởi A đối với B còn phải chỉ ra A cố ý gây thiệt hại. Để kết luận được vấn đề này, tòa án sẽ lập luận theo các đoạn sau Đoạn 1 Theo pháp luật, lỗi cố ý chỉ đòi hỏi người gây thiệt hại cố ý thực hiện hành vi mà không cần người gây thiệt hại phải cố ý gây ra một hậu quả cụ thể. Đoạn 2 Chứng cứ của vụ việc này cho thấy A cố ý đẩy B mặc dù có thể A không mong muốn gây thương tích cho B. Đoạn 3 kết luận A gây thiệt hại cho B với lỗi cố ý. Phương pháp lập luận tuyến tính linear reasoning Theo phương pháp này, các lập luận được tiến triển theo từng bước cho đến khi bước cuối cùng là kết luận. Ví dụ Người thuê báo cho chủ nhà biết là cầu thang chung lối đi duy nhất lên các tầng trên bị hỏng có nguy cơ sập cần phải sửa ngay, chủ nhà đến kiểm tra và quyết định không sửa vì cho rằng cầu thang vẫn còn có thể sử dụng tốt trong một thời gian nữa. Mấy hôm sau, khách của người thuê đến chơi, khi đang đi trên cầu thang chung thì cầu thang này bị sập. Hậu quả là người khách này bị thương tích. Để kết luận thương tích của người khách có mối quan hệ nhân quả với hành vi không sửa cầu thang không, tòa án sẽ theo các đoạn lập luận sau Đoạn 1 Bất kỳ người bình thường nào cũng biết rằng nếu cầu thang bị hư hỏng đến mức có thể bị sập sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của bất kỳ ai sử dụng. Đoạn 2 Chủ nhà đã được báo về tình trạng của cầu thang và được yêu cầu sửa ngay. Vì người sử dụng không có lối đi nào lên các tầng ngoài cầu thang chung, nên chủ nhà biết hoặc buộc phải biết rằng nếu cầu thang không được sửa ngay sẽ có nguy cơ bị sập và gây thiệt hại cho người sử dụng cầu thang. Đoạn 3 Như vậy, trong hoàn cảnh này, chủ nhà hoàn toàn có khả năng dự đoán được rủi ro xảy ra cho người sử dụng nếu cầu thang không được sửa chữa kịp thời. Thực tế, cầu thang đã không được sửa ngay dẫn đến thiệt hại cho sức khỏe của người khách. Đoạn 4 Trong vụ việc này, thiệt hại cho người sử dụng là một rủi ro có thể dự đoán được với xác suất xảy ra cao đến mức có thể khẳng định nó là hậu quả tất yếu hoặc mang tính bản chất của hành vi không sửa chữa cầu thang kịp thời. Đoạn 5 Giữa hành vi và thiệt hại có mối quan hệ nhân quả nếu thiệt hại là hậu quả tất yếu hoặc mang tính bản chất của hành vi. Do đó, trong tình huống này, giữa hành vi không sửa chữa cầu thang kịp thời và thương tích của người khách có mối quan hệ nhân quả. Phương pháp so sánh Phương pháp so sánh thường được sử dụng để áp dụng tiền lệ pháp. Tòa án sẽ so sánh chứng cứ trong vụ việc đang giải quyết với chứng cứ của vụ việc đã được giải quyết trước đó. Nếu chứng cứ của hai vụ việc tương tự nhau thì quan điểm trong quyết định giải quyết vụ việc trước đó sẽ được áp dụng. Nếu chứng cứ của hai vụ việc khác nhau, tòa án sẽ không áp dụng quan điểm trong quyết định giải quyết vụ việc trước đó. Bước thứ tư, đây là bước tòa án ra kết luận. Nếu dựa vào hiệu lực áp dụng, quan điểm của tòa án được chia thành holding và dictum. “Holding” là phần lập luận của tòa án có tính bắt buộc áp dụng cho các vụ việc tương tự về sau. Như vậy, các nguyên tắc và học thuyết pháp lý được tìm thấy trong phần “holding”. Nếu dựa vào số lượng biểu quyết thì quan điểm của tòa án được chia thành 1. Quan điểm nhất trí unanimous opinion đạt được khi tất cả các thẩm phán đồng ý với quan điểm. 2. Quan điểm đa số majority opinion là khi đa số các thẩm phán đồng ý với quan điểm được đưa ra. 3. Quan điểm đồng ý concurring opinion là quan điểm của một thẩm phán mặc dù đồng ý với quyết định của đa số nhưng có lập luận khác. 4. Quan điểm khác dissenting opinion là quan điểm của một hoặc một số thẩm phán không đồng ý với quan điểm của đa số thẩm phán. Trong tương lai, quan điểm khác có thể được sử dụng làm cơ sở cho lập luận để bãi bỏ một án lệ. Ngoài ra, tòa án có thể đưa ra quan điểm mà không thể hiện rõ cá nhân thẩm phán đưa ra quan điểm, quan điểm này được gọi là per curiam opinion. Không phải tất cả các bản án, quyết định của tòa án phá án tòa án phúc thẩm và tòa án tối cao sẽ trở thành án lệ. Chỉ các bản án, quyết định được công bố reported opinions mới được sử dụng như án lệ. Các bản án, quyết định không được công bố unreported opinions, unpublished opinions là các bản án, quyết định không có giá trị khuôn mẫu để làm tiền lệ. “Quan điểm không được công bố là các quan điểm của tòa án không có hiệu lực áp dụng bắt buộc cho các vụ việc về sau non-binding precedential effect. Chúng là các phán quyết bằng văn bản cho các vụ việc cụ thể, được soạn ra cho riêng các bên liên quan, và chúng được ban hành với mục đích không tạo ra hiệu lực áp dụng bắt buộc cho các vụ việc về sau, chúng cũng không được áp dụng với giá trị thuyết phục cho các vụ việc trong tương lai. Nội dung của các quan điểm này thường hẹp, trích dẫn các chứng cứ của việc ở mức tối thiểu, và ít có những phân tích về pháp luật. Các quan điểm này thường không được soạn thảo một cách trau chuốt và cẩn thận như các quan điểm được công bố chính thức.”[1] Tòa án bang Maryland cũng khẳng định rõ “Các quan điểm được đăng tải trên trang này không được công bố unreported. Quan điểm không được công bố không được sử dụng để trích dẫn trong bất kỳ văn bản, bản lập luận, bản đề nghị hoặc bất kỳ văn bản nào nộp cho tòa án, hoặc bất kỳ tòa án nào của bang Maryland sử dụng quan điểm này như là tiền lệ pháp theo nguyên tắc stare decicis hoặc như là quan điểm có giá trị thuyết phục. Qui chế 1-104 của Maryland”[2] Các bản án, quyết định của tòa án bang thuộc trường hợp được công bố được chính thức công bố trên hệ thống công bố quốc gia National Reporter System được công bố bởi West Group. Hệ thống công bố quốc gia được chia thành các báo cáo khu vực regional reporters, mỗi khu vực sẽ công bố bản án, quyết định của các bang được phân bổ cho đơn vị đó. Nguồn công bố bản án, quyết định của tòa án bang – Hệ thống công bố quốc gia[3] Báo cáo khu vực Thời điểm bắt đầu Phạm vi Atlantic Reporter A. hoặc 1885 Connecticut, Delaware, District of Comlumbia, Maine, Maryland, New Hamphshire, New Jersey, Pennsylvania, Rhode Island, và Vermont North Eastern Reporter hoặc 1885 Illinois, Indinia, Massachusetts, New York, và Ohio North Western Reporter hoặc 1879 Iowa, Michigan, Minnesota, Nerbraska, North Dakota, South Dakota và Wisconsin Pacific Reporter P., hoặc 1883 Alaska, Arizona, California, Colorado, Hawaii, Idaho, Kansas, Montana, Nevada, New Mexico, Oklahoma, Oregon, Utah, Washington và Wyoming South Estern Reporter hoặc 1887 Georgia, North Carolina, South Carolina, Virginia và Western Virginia South Western Reporter hoặc 1886 Arkasas, Kentucky, Missouri, Tennessee và Mississipi Southern Reporter So., So. 2d, hoặc So. 3d 1887 Alabama, Florida, Louisiana Các bản án, quyết định của Tòa án tối cao liên bang Hoa Kỳ được công bố trên báo cáo của Hoa Kỳ United States Reports Quyết định của tòa án sơ thẩm liên bang được công bố không chính thức trên West’s Federal Supplement hoặc còn bản án, quyết định của án phúc thẩm khu vực được công bố không chính thức trên West’s Federal Reporter F., hoặc [1] Eriscas. Weisgerber, Unpublished Opinions A Convenient Means to an Unconstitutional End, the Georgetown Law Journal [Vol. 97 621 2009], p. 623 [2] [3] Thông tin trong bảng này được lấy từ Kenneth W. Clarkson, Roger LeRoy Miller and Frank B. Cross 2011, Business Law Text and Cases – Legal, Ethical, Global, and Corporate Environment, twelfth edition, Cengage Learning, p. 17 [4] Kenneth W. Clarkson, Roger LeRoy Miller and Frank B. Cross 2011, Business Law Text and Cases – Legal, Ethical, Global, and Corporate Environment, twelfth edition, Cengage Learning, p. 17 Ít có cuộc bầu cử nào trên thế giới lại được chú ý và tốn giấy mực như cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ. Từ các ứng cử viên, cơ chế bầu cử đại cử tri đoàn, quá trình bỏ phiếu gay cấn ở các tiểu bang… luôn giúp cho người ta hào hứng theo dõi cuộc tranh đua chức danh nhà nước quyền lực nhất thế giới. Tuy nhiên, cũng giống như hầu hết các vấn đề quản trị nhà nước khác của Hoa Kỳ, khó có thể hoàn thiện bức tranh toàn cảnh của cuộc bầu cử mà không nói về những lần các bên liên quan phải “đáo tụng đình”. Là một quốc gia có truyền thống tư pháp mạnh mẽ, nơi mà hầu hết các tranh chấp công dân – công dân; hay công dân – nhà nước, đều được giải quyết bằng phán quyết của tòa, các tranh chấp về bầu cử tổng thống cũng nổ ra khá thường xuyên, và đều được dàn xếp thông qua các quyết định tư pháp. Dưới đây là ba án lệ quan trọng Luật Khoa muốn giới thiệu với bạn đọc, có thể giúp chúng ta hiểu rõ thêm về vai trò của tư pháp và văn hóa pháp lý Hoa Kỳ. Bush v. Gore 2000 Tiếng nói cuối cùng Trong gần hai thập kỷ trở lại đây, các luật gia nghiên cứu về Hoa Kỳ buộc phải nhắc đến vụ án Bush v. Gore. Dù không hẳn tạo ra các nguyên tắc pháp lý tiền lệ đặc biệt quan trọng cho tiến trình bầu cử, phán quyết một mặt chứng minh tầm ảnh hưởng bao trùm của Tối cao Pháp viện lên mọi vấn đề chính trị quốc gia, một mặt thể hiện sự trân trọng của tất cả các nhóm xã hội đối với Tối cao Pháp viện với tư cách là người quyết định cuối cùng trong cuộc chạy đua vào Nhà trắng đầy tranh cãi hồi năm 2000. Trong hoàn cảnh thời điểm đó, cuộc bầu cử tổng thống ở tiểu bang Florida để lại nhiều ngàn phiếu gây tranh cãi ở các quận như Miami-Dade và Palm Beach, có khả năng quyết định lại toàn bộ 25 phiếu Đại cử tri của Florida, vốn đã được tuyên bố là thuộc về ứng cử viên của Đảng Cộng hòa, George W. Bush. Cụ thể hơn, số phiếu này được máy đếm ra là các phiếu trắng, tức không ghi nhận bầu cho ai. Theo các luật sư bảo vệ quyền lợi cho ứng cử viên còn lại của Đảng Dân chủ, đương kiêm phó tổng thống Albert Gore, đây là những phiếu bầu hợp pháp và chỉ không đếm được bởi những hạn chế thiết kế của hệ thống đếm phiếu thẻ bằng máy. Theo họ, số lượng phiếu này cần phải được đếm lại, bằng tay không. Tối cao Pháp viện tiểu bang Florida đồng tình với lập luận của phía Albert Gore. Phía ông Bush, đương nhiên, không có lý do gì phải chấp nhận một rủi ro đáng giá 25 phiếu đại cử tri, khẳng định rằng chúng đều là những phiếu không có giá trị về mặt pháp lý. Do đó, việc đếm lại là không cần thiết. Hai ứng cử viên G. W. Bush và Al Gore tranh luận trên truyền hình năm 2000. Ảnh Boston Global. Câu hỏi mà đội ngũ luật sư của ông Bush đặt ra cho Tối cao Pháp viện cũng vô cùng khéo léo “Việc Tối cao Pháp viện tiểu bang Florida đặt ra các quy tắc bầu cử mới ý chỉ luật tiểu bang và liên bang không có quy định đếm phiếu bằng tay – ND có vi phạm Hiến pháp Hoa Kỳ hay không? và Việc đếm phiếu không quy chuẩn bằng tay có vi phạm các điều khoản về bảo vệ bình đẳng equal protection và chuẩn mực pháp lý due process hay không?” Như vậy, thay vì để câu hỏi ở trạng thái nguyên vẹn là “có nên kiểm phiếu bằng tay hay không?”, nay Pháp viện phải xem xét liệu việc cho kiểm phiếu bằng tay có phải là đang đặt ra các quy tắc pháp lý bầu cử mới hay không? Một góc nhìn hoàn toàn khác biệt, hợp lý, và có lợi hơn cho ông Bush. Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ nghiêng về các lập luận của đội ngũ luật sư của Bush, với 7/9 thẩm phán cho rằng Pháp viện tiểu bang Florida đã vi hiến, và 5/9 thẩm phán cho rằng đếm phiếu bằng tay mà không có quy chuẩn luật định vi phạm các nguyên tắc Equal Protection và Due Process. Việc đếm phiếu lại do đó đã không thể diễn ra. Nhờ phán quyết này, ông Bush có đủ 25 phiếu đại cử tri của bang này, và cuối cùng là tổng cộng 271 phiếu đại cử tri toàn quốc, dư đúng một phiếu để có thể trở thành tổng thống Hoa Kỳ. Quan trọng hơn cả, theo Thẩm phán Stephen G. Breyer, dù ông không đồng tình với kết quả cuối cùng, phản ứng của các đảng phái cũng như dân chúng đối với phán quyết thể hiện sự tôn trọng rất lớn của người dân dành cho tòa và hệ thống tư pháp quốc gia. Đó là những gì tốt đẹp về nền pháp quyền và văn hóa pháp lý Hoa Kỳ. Smith v. Allwright 1944 Quyền bỏ phiếu nội bộ đảng “Chế độ nô lệ sẽ không thật sự chấm dứt cho đến khi người da đen có quyền bỏ phiếu”. Đây là tuyên bố nổi tiếng của Frederick Douglass vào tháng Năm năm 1865, sau khi chính phủ Liên hiệp miền Bắc đạt được chiến thắng quyết định tại Appomattox trong cuộc Nội chiến 1861 – 1865. Lo ngại của Frederick Douglass về tàn dư của chế độ nô lệ không thừa. Quá trình Tái thiết Reconstruction Hoa Kỳ sau cuộc nội chiến tại miền Nam được vận hành chủ yếu bởi chính những người da trắng thua trận, vốn vẫn còn một niềm tin mãnh liệt vào chế độ nô lệ và sự thấp kém của người Mỹ gốc Phi. Dù vào nửa cuối thế kỷ 19, đã có nhiều dân biểu, thượng nghị sĩ gốc Phi được bầu vào Quốc hội Hoa Kỳ, sự phân biệt đối xử ngầm dành cho người da đen vẫn tồn tại suốt nhiều thập niên. Một trong số đó, phải kể đến việc Đảng Dân chủ thời điểm này vẫn còn là chính đảng đại diện cho sự phân biệt – định kiến không cho phép cử tri da đen tham gia vào các kỳ bầu cử sơ bộ bên trong nội bộ đảng. Căn cứ pháp lý là các đạo luật riêng rẽ ở từng tiểu bang, ghi nhận rằng các chính đảng có quyền tự thiết lập nguyên tắc bầu bán riêng của mình trong các cuộc bầu cử nội bộ. Như vậy, dù quyền bầu cử trên toàn quốc dành cho người Mỹ gốc Phi đã được công nhận và thi hành trên thực tế, họ vẫn có khả năng bị loại ra khỏi quá trình đóng góp tiếng nói trong việc quyết định ứng viên bên trong từng đảng. Nói cách khác, anh có quyền đi bầu trong các cuộc tổng tuyển cử; nhưng việc chọn ra ứng cử viên là ai thì anh không có quyền tham gia. Cử tri da đen đòi quyền bỏ phiếu ở Mỹ. Ảnh Mãi đến năm 1923, Lonnie E. Smith, một cử tri da đen thuộc quận Harris, Texas, khởi kiện đảng bộ Đảng Dân chủ tiểu bang Texas vì quy định rằng chỉ có các công dân da trắng mới được bỏ phiếu cho kỳ bầu cử sơ bộ trong nội bộ đảng này. Để trả lời câu hỏi hành vi loại trừ quyền bầu cử của công dân dựa trên màu da, sắc tộc của các tổ chức chính trị, tổ chức tư nhân có vi phạm Hiến pháp Hoa Kỳ hay không, Tối cao Pháp viện lập luận “Hoa Kỳ là một nền dân chủ lập hiến. Từng tế bào của hệ thống pháp luật chúng ta bảo đảm cho mọi công dân quyền được tham gia vào quá trình lựa chọn các chức vụ công quyền mà không gặp bất kỳ cản trở nào vì màu da của họ. Nếu chính quyền tiểu bang có thể đơn giản tước bỏ quyền công dân quan trọng này bằng cách trao lại thẩm quyền cho một tổ chức tư nhân nhằm thực hiện hành vi phân biệt chủng tộc ngay cả trước khi cuộc bầu cử chính thức diễn ra, các quyền hiến định sẽ không còn bao nhiêu ý nghĩa nữa”. Không chỉ vậy, Pháp viện còn nhấn mạnh vai trò của các chính đảng trong việc lựa chọn ra ứng viên để được tham gia vào cuộc tổng tuyển cử toàn quốc hay toàn tiểu bang không còn đơn thuần là một tổ chức tư nhân, mà là đang thực hiện chức năng nối dài của chính quyền. Phán quyết chính thức xóa bỏ hệ thống bầu cử nội bộ phân biệt đối xử của các chính đảng, mà cụ thể ở đây là Đảng Dân chủ, từ đó khởi nguồn cho các biến chuyển, cải cách mạnh mẽ diễn ra bên trong từng đảng cho đến ngày nay. Buckley v. Valeo 1976 Kiện cơ quan lập pháp vì pháp luật kiểm soát tài chính bầu cử Dưới nhiều góc độ, Buckey v Valeo là một trong những án lệ dài nhất trong lịch sử xét xử của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, với nhiều kết luận tư pháp cuối cùng được đưa ra nhất. Đây là bản án định hình nên cách thức mà chính phủ liên bang lẫn tiểu bang Hoa Kỳ hiện nay đang tiếp cận với tiêu chuẩn minh bạch và kiểm soát đóng góp tài chính cho hoạt động tranh cử của các ứng cử viên. Về bối cảnh lịch sử, lưỡng viện Hoa Kỳ quyết định đặt ra các định mức đóng góp tài chính cá nhân và nhiều quy định pháp luật khác cho hoạt động tranh cử sau vụ bê bối Watergate lịch sử đầu thập niên 1970. Một số đạo luật như Đạo luật Vận động Tranh cử Liên bang Federal Election Campaign Act 1971 cùng những điều khoản cũ trong Bộ luật Thuế Internal Revenue Code 1954, được ban hành hoặc sử dụng nhằm ngăn chặn khả năng chi phối các chính trị gia, nguy cơ tham nhũng và tính liêm chính của các cuộc bầu cử liên bang. Đáng chú ý có thể kể đến việc đặt giới hạn đóng góp tài chính của từng cá nhân cho một chương trình vận động tranh cử, hay đặt ra nghĩa vụ báo cáo tài chính cho các tổ chức nếu khoản đóng góp của họ cho chương trình tranh cử vượt quá một con số do luật xác định. Kèm theo đó, Ủy ban Bầu cử Liên bang Federal Election Commission – FEC cũng được thành lập để đảm bảo việc vận hành những yêu cầu kiểm soát ngặt nghèo mới về vấn đề tài chính này. Dù vừa nhìn qua, đây đều là những quy định rất cần thiết để bảo vệ sự công bằng, minh bạch và liêm chính của một cuộc bầu cử, người Mỹ không đơn giản chấp nhận nó mà không có một cuộc đấu pháp lý sòng phẳng. James Buckley phải trong đêm bầu cử ở New York, 3/11/1970. Ảnh National Review. Trong vụ án, James L. Buckley – nguyên đơn – là người thuộc đảng Bảo thủ Conservative Party, một đảng nhỏ buộc phải phản đối các giới hạn tài chính vì nó làm giảm năng lực cạnh tranh của đảng này với các đảng phái lâu đời như Cộng hòa hay Dân chủ. Bị đơn, Francis R. Valeo, là Thư ký và đại diện cho Thượng viện Hoa Kỳ trước tòa. Sau hơn ba tháng tranh luận và cân nhắc, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đưa ra hàng loạt các kết luận và lý giải đi kèm, với 7/9 phiếu đồng thuận từ các thẩm phán. Phán quyết có thể được tạm rút gọn những điểm quan trọng như sau Đối với giới hạn đóng góp tài chính của từng cá nhân dành cho một ứng cử viên, một cuộc vận động tranh cử nhất định, tổng chi của cá nhân cho tất cả các cuộc tranh cử trong một năm tài chính, cùng theo đó là các yêu cầu về tiết lộ và minh bạch thông tin người đóng góp, Pháp viện cho rằng đây là những công cụ pháp lý cần thiết nhằm chống lại thực trạng các ứng cử viên của các chức danh nhà nước quan trọng có thể bị lệ thuộc vào các mạnh thường quân lớn. Các giới hạn và biện pháp đặt ra, theo Pháp viện, vừa bảo vệ được lợi ích của một nhà nước chính trực, minh bạch, song cũng không làm ảnh hưởng quá nhiều đến quyền tự do biểu đạt của công dân. Ngược lại, đối với việc đặt ra giới hạn chi tiêu tranh cử của các ứng viên, đặt ra trần được phép sử dụng từ các nguồn quỹ thuộc sở hữu chính ứng viên đó, gia đình ứng viên hay của toàn bộ chiến dịch tranh cử… tạo nên hạn chế trực tiếp, xâm phạm lên quyền tự do biểu đạt được ghi nhận trong Tu chính án thứ Nhất. Tương tự như vậy, một cá nhân độc lập chi tiền để quảng bá cho hình ảnh và thông điệp chính trị của một ứng cử viên cũng được xem là hình thức ngôn luận được bảo vệ. Những hạn chế này sẽ giới hạn năng lực của ứng viên, công dân và các tổ chức xã hội có thể tham gia vào các hoạt động được bảo vệ như biểu đạt và tuyên truyền các thông điệp chính trị bằng các buổi mít-tinh, gặp mặt, đại nhạc hội, quảng cáo và các hoạt động công cộng khác. Nói cách khác, theo các thẩm phán, chi tiền trong tranh cử đồng nghĩa với việc thực hiện quyền nói của mình. Hạn chế việc chi tiền đồng nghĩa với việc hạn chế quyền tự do ngôn luận về mặt định lượng quantity. Cuối cùng, cùng với các kết luận khác, Tối cao Pháp viện cũng đồng thời khẳng định thẩm quyền bổ nhiệm các chức danh của Ủy ban Bầu cử Liên bang được trao trực tiếp cho các thành viên Nghị viên là vi phạm nguyên tắc tam quyền phân lập mà Hoa Kỳ theo đuổi từ thời kỳ lập quốc. Tất cả các chức danh trong nhóm Nhân viên Liên bang Hoa Kỳ “Officers of the United States” cần phải do Tổng thống Hoa Kỳ đề cử và bổ nhiệm, với ý kiến và sự chuẩn thuận từ Thượng viện. Ít có cuộc bầu cử nào trên thế giới lại được chú ý và tốn giấy mực như cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ. Từ các ứng cử viên, cơ chế bầu cử đại cử tri đoàn, quá trình bỏ phiếu gay cấn ở các tiểu bang… luôn giúp cho người ta hào hứng theo dõi cuộc tranh đua chức danh nhà nước quyền lực nhất thế nhiên, cũng giống như hầu hết các vấn đề quản trị nhà nước khác của Hoa Kỳ, khó có thể hoàn thiện bức tranh toàn cảnh của cuộc bầu cử mà không nói về những lần các bên liên quan phải “đáo tụng đình”.Là một quốc gia có truyền thống tư pháp mạnh mẽ, nơi mà hầu hết các tranh chấp công dân – công dân; hay công dân – nhà nước, đều được giải quyết bằng phán quyết của tòa, các tranh chấp về bầu cử tổng thống cũng nổ ra khá thường xuyên, và đều được dàn xếp thông qua các quyết định tư đây là ba án lệ quan trọng Luật Khoa muốn giới thiệu với bạn đọc, có thể giúp chúng ta hiểu rõ thêm về vai trò của tư pháp và văn hóa pháp lý Hoa v. Gore 2000 Tiếng nói cuối cùngTrong gần hai thập kỷ trở lại đây, các luật gia nghiên cứu về Hoa Kỳ buộc phải nhắc đến vụ án Bush v. Gore. Dù không hẳn tạo ra các nguyên tắc pháp lý tiền lệ đặc biệt quan trọng cho tiến trình bầu cử, phán quyết một mặt chứng minh tầm ảnh hưởng bao trùm của Tối cao Pháp viện lên mọi vấn đề chính trị quốc gia, một mặt thể hiện sự trân trọng của tất cả các nhóm xã hội đối với Tối cao Pháp viện với tư cách là người quyết định cuối cùng trong cuộc chạy đua vào Nhà trắng đầy tranh cãi hồi năm hoàn cảnh thời điểm đó, cuộc bầu cử tổng thống ở tiểu bang Florida để lại nhiều ngàn phiếu gây tranh cãi ở các quận như Miami-Dade và Palm Beach, có khả năng quyết định lại toàn bộ 25 phiếu Đại cử tri của Florida, vốn đã được tuyên bố là thuộc về ứng cử viên của Đảng Cộng hòa, George W. Bush. Cụ thể hơn, số phiếu này được máy đếm ra là các phiếu trắng, tức không ghi nhận bầu cho các luật sư bảo vệ quyền lợi cho ứng cử viên còn lại của Đảng Dân chủ, đương kiêm phó tổng thống Albert Gore, đây là những phiếu bầu hợp pháp và chỉ không đếm được bởi những hạn chế thiết kế của hệ thống đếm phiếu thẻ bằng máy. Theo họ, số lượng phiếu này cần phải được đếm lại, bằng tay không. Tối cao Pháp viện tiểu bang Florida đồng tình với lập luận của phía Albert ông Bush, đương nhiên, không có lý do gì phải chấp nhận một rủi ro đáng giá 25 phiếu đại cử tri, khẳng định rằng chúng đều là những phiếu không có giá trị về mặt pháp lý. Do đó, việc đếm lại là không cần ứng cử viên G. W. Bush và Al Gore tranh luận trên truyền hình năm 2000. Ảnh Boston hỏi mà đội ngũ luật sư của ông Bush đặt ra cho Tối cao Pháp viện cũng vô cùng khéo léo“Việc Tối cao Pháp viện tiểu bang Florida đặt ra các quy tắc bầu cử mới ý chỉ luật tiểu bang và liên bang không có quy định đếm phiếu bằng tay – ND có vi phạm Hiến pháp Hoa Kỳ hay không? vàViệc đếm phiếu không quy chuẩn bằng tay có vi phạm các điều khoản về bảo vệ bình đẳng equal protection và chuẩn mực pháp lý due process hay không?”Như vậy, thay vì để câu hỏi ở trạng thái nguyên vẹn là “có nên kiểm phiếu bằng tay hay không?”, nay Pháp viện phải xem xét liệu việc cho kiểm phiếu bằng tay có phải là đang đặt ra các quy tắc pháp lý bầu cử mới hay không? Một góc nhìn hoàn toàn khác biệt, hợp lý, và có lợi hơn cho ông cao Pháp viện Hoa Kỳ nghiêng về các lập luận của đội ngũ luật sư của Bush, với 7/9 thẩm phán cho rằng Pháp viện tiểu bang Florida đã vi hiến, và 5/9 thẩm phán cho rằng đếm phiếu bằng tay mà không có quy chuẩn luật định vi phạm các nguyên tắc Equal Protection và Due đếm phiếu lại do đó đã không thể diễn phán quyết này, ông Bush có đủ 25 phiếu đại cử tri của bang này, và cuối cùng là tổng cộng 271 phiếu đại cử tri toàn quốc, dư đúng một phiếu để có thể trở thành tổng thống Hoa trọng hơn cả, theo Thẩm phán Stephen G. Breyer, dù ông không đồng tình với kết quả cuối cùng, phản ứng của các đảng phái cũng như dân chúng đối với phán quyết thể hiện sự tôn trọng rất lớn của người dân dành cho tòa và hệ thống tư pháp quốc gia. Đó là những gì tốt đẹp về nền pháp quyền và văn hóa pháp lý Hoa v. Allwright 1944 Quyền bỏ phiếu nội bộ đảng“Chế độ nô lệ sẽ không thật sự chấm dứt cho đến khi người da đen có quyền bỏ phiếu”.Đây là tuyên bố nổi tiếng của Frederick Douglass vào tháng Năm năm 1865, sau khi chính phủ Liên hiệp miền Bắc đạt được chiến thắng quyết định tại Appomattox trong cuộc Nội chiến 1861 – ngại của Frederick Douglass về tàn dư của chế độ nô lệ không thừa. Quá trình Tái thiết Reconstruction Hoa Kỳ sau cuộc nội chiến tại miền Nam được vận hành chủ yếu bởi chính những người da trắng thua trận, vốn vẫn còn một niềm tin mãnh liệt vào chế độ nô lệ và sự thấp kém của người Mỹ gốc vào nửa cuối thế kỷ 19, đã có nhiều dân biểu, thượng nghị sĩ gốc Phi được bầu vào Quốc hội Hoa Kỳ, sự phân biệt đối xử ngầm dành cho người da đen vẫn tồn tại suốt nhiều thập trong số đó, phải kể đến việc Đảng Dân chủ thời điểm này vẫn còn là chính đảng đại diện cho sự phân biệt – định kiến không cho phép cử tri da đen tham gia vào các kỳ bầu cử sơ bộ bên trong nội bộ đảng. Căn cứ pháp lý là các đạo luật riêng rẽ ở từng tiểu bang, ghi nhận rằng các chính đảng có quyền tự thiết lập nguyên tắc bầu bán riêng của mình trong các cuộc bầu cử nội vậy, dù quyền bầu cử trên toàn quốc dành cho người Mỹ gốc Phi đã được công nhận và thi hành trên thực tế, họ vẫn có khả năng bị loại ra khỏi quá trình đóng góp tiếng nói trong việc quyết định ứng viên bên trong từng đảng. Nói cách khác, anh có quyền đi bầu trong các cuộc tổng tuyển cử; nhưng việc chọn ra ứng cử viên là ai thì anh không có quyền tham tri da đen đòi quyền bỏ phiếu ở Mỹ. Ảnh đến năm 1923, Lonnie E. Smith, một cử tri da đen thuộc quận Harris, Texas, khởi kiện đảng bộ Đảng Dân chủ tiểu bang Texas vì quy định rằng chỉ có các công dân da trắng mới được bỏ phiếu cho kỳ bầu cử sơ bộ trong nội bộ đảng trả lời câu hỏi hành vi loại trừ quyền bầu cử của công dân dựa trên màu da, sắc tộc của các tổ chức chính trị, tổ chức tư nhân có vi phạm Hiến pháp Hoa Kỳ hay không, Tối cao Pháp viện lập luận“Hoa Kỳ là một nền dân chủ lập hiến. Từng tế bào của hệ thống pháp luật chúng ta bảo đảm cho mọi công dân quyền được tham gia vào quá trình lựa chọn các chức vụ công quyền mà không gặp bất kỳ cản trở nào vì màu da của họ. Nếu chính quyền tiểu bang có thể đơn giản tước bỏ quyền công dân quan trọng này bằng cách trao lại thẩm quyền cho một tổ chức tư nhân nhằm thực hiện hành vi phân biệt chủng tộc ngay cả trước khi cuộc bầu cử chính thức diễn ra, các quyền hiến định sẽ không còn bao nhiêu ý nghĩa nữa”.Không chỉ vậy, Pháp viện còn nhấn mạnh vai trò của các chính đảng trong việc lựa chọn ra ứng viên để được tham gia vào cuộc tổng tuyển cử toàn quốc hay toàn tiểu bang không còn đơn thuần là một tổ chức tư nhân, mà là đang thực hiện chức năng nối dài của chính quyết chính thức xóa bỏ hệ thống bầu cử nội bộ phân biệt đối xử của các chính đảng, mà cụ thể ở đây là Đảng Dân chủ, từ đó khởi nguồn cho các biến chuyển, cải cách mạnh mẽ diễn ra bên trong từng đảng cho đến ngày v. Valeo 1976 Kiện cơ quan lập pháp vì pháp luật kiểm soát tài chính bầu cửDưới nhiều góc độ, Buckey v Valeo là một trong những án lệ dài nhất trong lịch sử xét xử của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, với nhiều kết luận tư pháp cuối cùng được đưa ra nhất. Đây là bản án định hình nên cách thức mà chính phủ liên bang lẫn tiểu bang Hoa Kỳ hiện nay đang tiếp cận với tiêu chuẩn minh bạch và kiểm soát đóng góp tài chính cho hoạt động tranh cử của các ứng cử bối cảnh lịch sử, lưỡng viện Hoa Kỳ quyết định đặt ra các định mức đóng góp tài chính cá nhân và nhiều quy định pháp luật khác cho hoạt động tranh cử sau vụ bê bối Watergate lịch sử đầu thập niên 1970. Một số đạo luật như Đạo luật Vận động Tranh cử Liên bang Federal Election Campaign Act 1971 cùng những điều khoản cũ trong Bộ luật Thuế Internal Revenue Code 1954, được ban hành hoặc sử dụng nhằm ngăn chặn khả năng chi phối các chính trị gia, nguy cơ tham nhũng và tính liêm chính của các cuộc bầu cử liên chú ý có thể kể đến việc đặt giới hạn đóng góp tài chính của từng cá nhân cho một chương trình vận động tranh cử, hay đặt ra nghĩa vụ báo cáo tài chính cho các tổ chức nếu khoản đóng góp của họ cho chương trình tranh cử vượt quá một con số do luật xác theo đó, Ủy ban Bầu cử Liên bang Federal Election Commission – FEC cũng được thành lập để đảm bảo việc vận hành những yêu cầu kiểm soát ngặt nghèo mới về vấn đề tài chính vừa nhìn qua, đây đều là những quy định rất cần thiết để bảo vệ sự công bằng, minh bạch và liêm chính của một cuộc bầu cử, người Mỹ không đơn giản chấp nhận nó mà không có một cuộc đấu pháp lý sòng Buckley phải trong đêm bầu cử ở New York, 3/11/1970. Ảnh National vụ án, James L. Buckley – nguyên đơn – là người thuộc đảng Bảo thủ Conservative Party, một đảng nhỏ buộc phải phản đối các giới hạn tài chính vì nó làm giảm năng lực cạnh tranh của đảng này với các đảng phái lâu đời như Cộng hòa hay Dân chủ. Bị đơn, Francis R. Valeo, là Thư ký và đại diện cho Thượng viện Hoa Kỳ trước hơn ba tháng tranh luận và cân nhắc, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đưa ra hàng loạt các kết luận và lý giải đi kèm, với 7/9 phiếu đồng thuận từ các thẩm phán. Phán quyết có thể được tạm rút gọn những điểm quan trọng như sauĐối với giới hạn đóng góp tài chính của từng cá nhân dành cho một ứng cử viên, một cuộc vận động tranh cử nhất định, tổng chi của cá nhân cho tất cả các cuộc tranh cử trong một năm tài chính, cùng theo đó là các yêu cầu về tiết lộ và minh bạch thông tin người đóng góp, Pháp viện cho rằng đây là những công cụ pháp lý cần thiết nhằm chống lại thực trạng các ứng cử viên của các chức danh nhà nước quan trọng có thể bị lệ thuộc vào các mạnh thường quân giới hạn và biện pháp đặt ra, theo Pháp viện, vừa bảo vệ được lợi ích của một nhà nước chính trực, minh bạch, song cũng không làm ảnh hưởng quá nhiều đến quyền tự do biểu đạt của công lại, đối với việc đặt ra giới hạn chi tiêu tranh cử của các ứng viên, đặt ra trần được phép sử dụng từ các nguồn quỹ thuộc sở hữu chính ứng viên đó, gia đình ứng viên hay của toàn bộ chiến dịch tranh cử… tạo nên hạn chế trực tiếp, xâm phạm lên quyền tự do biểu đạt được ghi nhận trong Tu chính án thứ Nhất. Tương tự như vậy, một cá nhân độc lập chi tiền để quảng bá cho hình ảnh và thông điệp chính trị của một ứng cử viên cũng được xem là hình thức ngôn luận được bảo hạn chế này sẽ giới hạn năng lực của ứng viên, công dân và các tổ chức xã hội có thể tham gia vào các hoạt động được bảo vệ như biểu đạt và tuyên truyền các thông điệp chính trị bằng các buổi mít-tinh, gặp mặt, đại nhạc hội, quảng cáo và các hoạt động công cộng cách khác, theo các thẩm phán, chi tiền trong tranh cử đồng nghĩa với việc thực hiện quyền nói của mình. Hạn chế việc chi tiền đồng nghĩa với việc hạn chế quyền tự do ngôn luận về mặt định lượng quantity.Cuối cùng, cùng với các kết luận khác, Tối cao Pháp viện cũng đồng thời khẳng định thẩm quyền bổ nhiệm các chức danh của Ủy ban Bầu cử Liên bang được trao trực tiếp cho các thành viên Nghị viên là vi phạm nguyên tắc tam quyền phân lập mà Hoa Kỳ theo đuổi từ thời kỳ lập cả các chức danh trong nhóm Nhân viên Liên bang Hoa Kỳ “Officers of the United States” cần phải do Tổng thống Hoa Kỳ đề cử và bổ nhiệm, với ý kiến và sự chuẩn thuận từ Thượng viện. Archives Archives Tại Việt Nam, sau một khoản thời gian dài nghiên cứu về án lệ, vào năm 2014, Luật Tổ chức Tòa án lần đầu tiên công nhận khái niệm án lệ trong hệ thống tư pháp Việt Nam. Năm 2015, Nghị quyết 03 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao chính thức hướng dẫn mục tiêu của án lệ, quy trình công bố và lựa chọn, cũng như phương thức hoạt động của án lệ tại Việt Nam. Cho đến nay tổng cộng 26 án lệ đã được công bố, với ý nghĩa áp dụng bắt buộc. Để phân biệt án lệ theo thông luật và án lệ Việt Nam, điều đầu tiên chúng ta cần phải nhớ là gì? Theo người viết, đó là Án lệ tại Việt Nam không phải “án lệ” ! Câu chuyện hiển nhiên phức tạp hơn thế và sẽ được giải thích qua bài viết dưới đây. *** Với sự phát triển theo xu hướng toàn cầu hóa của khoa học pháp lý ngày nay, hình thức pháp luật hay nguồn luật bao gồm hai thành phần chính yếu hai loại là 1 Văn bản quy phạm pháp luật, tức văn bản pháp quy, hay cũng có thể gọi là luật thành văn statutory law gồm những tập hợp các quy phạm pháp luật được soạn thảo và ban hành bởi cơ quan lập pháp. 2 án lệ case law, hay cũng có thể gọi là tiền lệ pháp legal precedent gồm những nguyên tắc pháp lý được hình thành và phổ biến thông qua các quyết định tư pháp của tòa án. Hai loại nguồn luật trên được các quốc gia vận dụng một cách linh hoạt nhằm phát huy tối đa ưu điểm của cả hai. Luật thành văn – Tiền lệ pháp có đặc điểm gì? Nguồn văn bản pháp quy cho chúng ta có những đặc điểm cố hữu sau Thứ nhất, chúng có tính chính danh nhà nước và sự đại diện của chủ quyền nhân dân. Văn bản pháp quy vốn là sản phẩm của các cơ quan dân cử đại diện như Nghị viện, Quốc hội, hoặc các cơ quan khác được cơ quan dân cử ủy quyền như Chính phủ Việt Nam được ủy quyền để ra Nghị định;Thứ hai, tính bao quát. Với mục tiêu là điều chỉnh nhiều mối quan hệ xã hội trong phạm vi rộng lớn cấp độ quốc gia hoặc khu vực, luật thành văn buộc phải có tính trừu tượng và khái quát cao;Thứ ba, tính hệ thống. Cơ quan soạn thảo và ban hành văn bản sẽ phân chia các văn bản vào từng ngành luật khác nhau, với mối liên hệ nội tại chặt chẽ theo lý thuyết. Mặt khác, công nhận tiền lệ pháp sẽ giúp hệ thống pháp luật quốc gia Linh động hơn trong việc phản ứng trước những tình huống chưa được dự báo hoặc dự báo không thành công trong văn bản quy phạm pháp luật. Sở dĩ như vậy là bởi vì tòa án vốn là cơ quan trực tiếp tiếp cận với các mối quan hệ xã hội trên thực tế, và do đó thấu hiểu thực tiễn và các vấn đề phát sinh trong đời sống hơn;Duy trì tính nhất quán trong các quyết định tư pháp,Quy trình hình thành nguyên tắc pháp lý nhanh chóng, kịp thời hơn,Mang tính cụ thể hơn, rõ ràng hơn cho từng vụ việc, thay vì phổ quát, chung chung như văn bản quy phạm pháp luật, Cơ quan lập pháp sẽ xác lập nguyên tắc pháp lý ở đầu vào, dựa vào ý nguyện của người dân được biểu đạt bởi đại biểu đại diện cho họ. Khi pháp luật thành văn được đưa vào thực tiễn và xảy ra tranh chấp, cơ quan tư pháp tòa án sẽ có thể để lại dấu ấn của mình trên từng mối quan hệ xã hội nhất định thông qua các nguyên tắc pháp lý mà họ sáng tạo ra trong các quyết định tư pháp. Văn bản quy phạm do cơ quan đại diện dân cử như Nghị viên, Quốc hội; hoặc các cơ quan được ủy quyền bởi các cơ quan đại diện dân cử như Chính phủ, Bộ ngành… ban hành, là luật thành văn. Trong ảnh là Quốc hội Việt Nam kỳ họp thứ 5 khóa 14. Ảnh Tin tức Việt Nam. Ví dụ, Tu chính án thứ nhất the First Amendment của Hiến pháp Hoa Kỳ ghi nhận rằng “Quốc hội sẽ không ban hành một đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, báo chí và quyền của dân chúng được hội họp và kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều gây bất bình”. Lưu ý rằng đây là một tư tưởng đẹp như tranh, nhưng hoàn toàn vô dụng khi cần được áp dụng Khái niệm Quốc hội ở đây có phải chỉ ám chỉ cơ quan lập pháp liên bang? Liệu có bao gồm các chính quyền tiểu bang ở Hoa Kỳ? Thế nào là một đạo luật ngăn cấm tự do ngôn luận? Những câu hỏi này, may mắn thay, sẽ được trả lời bởi các tòa án thông luật. Đối với câu hỏi Tu chính án áp dụng ở cấp trung ương hay địa phương, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ thông qua hàng loạt bản án từ thập niên 20 đến thập niên 40 trong thế kỷ thứ 20 để khẳng định rằng Tu chính án thứ nhất có thẩm quyền tác động lên hoạt động lập pháp của chính quyền cấp tiểu bang. Riêng về việc xác định xem thế nào là một đạo luật ngăn cấm tự do ngôn luận, Tối cao Pháp viện cũng có hằng hà sa số bản án ghi nhận các nguyên tắc pháp lý mới do tòa này sáng tạo ra nhằm giải thích Tu chính án thứ nhất. Có thể nhắc đến án lệ Near v. Minnesota, mà theo đó Tối cao Pháp viện đưa ra nguyên tắc pháp lý “hạn chế trước” prior restrain, cho rằng một văn bản quy phạm pháp luật có mục đích hạn chế trước bất kỳ loại thông tin nào cũng bị xem là xâm phạm quyền được bảo vệ bởi Tu chính án thứ nhất. Tuy nhiên, để mô hình án lệ kiểu mẫu này có thể diễn ra một cách đúng nghĩa, trơn tru như trên, hệ thống pháp luật của một quốc gia cần ba yếu tố cực kỳ quan trọng Tiền lệ phải được tuân thủ stare decisisThẩm quyền giải thích pháp luật của tòa án Sự độc lập chính trị của tòa án. *** “Tiền lệ phải được tuân thủ“ Stare decisis là một từ gốc Latin, được tạm dịch qua ngôn ngữ Anh là to stand by things decided. Ở Việt Nam, các học giả pháp lý gọi là nguyên tắc “tiền lệ phải được tuân thủ”. Trong phạm vi bài viết, chúng ta khó có thể đào sâu khai thác toàn bộ lịch sử hình thành thú vị của nguyên tắc. Song, nói một cách dễ hiểu, nguyên tắc này là thứ keo dính kết nối các quyết định tư pháp lại với nhau. Các thẩm phán có trách nhiệm áp dụng các nguyên tắc pháp lý đã được áp dụng hoặc được sáng tạo trước đó bởi các thẩm phán khác. Điều này khiến cho các quyết định tư pháp, về bản chất thường chỉ có phạm vi tác động trong phạm vi phòng xử án và các bên liên quan của vụ việc, trở thành những nguyên tắc cần phải được cơ quan nhà nước lẫn các đương sự phải tôn trọng nếu không muốn phải chịu các rủi ro pháp lý trước tòa. Tuy nhiên, tại Việt Nam, nguyên tắc “tiền lệ phải được tuân thủ” không được công nhận, và tự bản thân tòa không có năng lực hình thành án lệ. Chỉ có một số bản án mang tính điển hình được tập hợp và đề xuất từ các tòa cấp dưới. Thông qua quy trình tổng kết thực tiễn xét xử, tuyển chọn của các tòa án cấp trên, hội đồng thẩm phán từ đó được thừa nhận và công bố một số bản án với tư cách là án lệ. Hình ảnh “ngổn ngang” của bộ Federal Supplements. Bộ này là một trong các địa chỉ quan trọng để giới luật sư Hoa Kỳ tìm kiếm án lệ của các tòa Liên bang. Ảnh Flickr. Theo người viết, án lệ Việt Nam thực ra không khác biệt mấy với quy trình soạn thảo nghị quyết thông thường của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao Việt Nam, cùng tư liệu là các bản án, các câu hỏi đề xuất của tòa cấp dưới cũng như tổng kết kinh nghiệm xét xử thường niên trước đây. Chỉ duy có khác biệt duy nhất là sản phẩm cuối cùng không phải là một nghị quyết của Hội đồng thẩm phán như xưa. Do đó, có thể nói nguyên tắc căn bản xương sống của khái niệm “án lệ” không tồn tại ở Việt Nam. *** Thẩm quyền và vai trò của tòa án Điểm thứ hai, rất quan trọng, là thẩm quyền và vai trò của tòa án tại Việt Nam. Các bản án của tòa Việt Nam không nhằm tạo ra án lệ, và cũng không thể sáng tạo như ở những quốc gia thuộc hệ thống thông luật. Mục tiêu chính của việc lựa chọn, hình thành và công bố án lệ tại Việt Nam là làm rõ những quy phạm pháp luật còn nhiều cách hiểu khác nhau, hay chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý và quy phạm pháp luật cần áp dụng trong trường hợp cụ thể. Ví dụ, Án lệ số 01/2016/AL về vụ án “Giết người” có nội dung án lệ như sau “Trong vụ án có đồng phạm, nếu chứng minh được ý thức chủ quan của người chủ mưu là chỉ thuê người khác gây thương tích cho người bị hại mà không có ý định tước đoạt tính mạng của họ người chủ mưu chỉ yêu cầu gây thương tích ở chân, tay của người bị hại mà không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể có khả năng dẫn đến chết người; người thực hành cũng đã thực hiện theo đúng yêu cầu của người chủ mưu; việc nạn nhân bị chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người chủ mưu thì người chủ mưu phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”. Hay trong Án lệ số 09/2016/AL về xác định lãi suất nợ quá hạn trung bình “Tuy nhiên, khi tính tiền lãi do chậm thanh toán số tiền nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm mặc dù áp dụng Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 nhưng không lấy mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán xét xử sơ thẩm để tính, mà lại áp dụng mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo yêu cầu của nguyên đơn để áp dụng mức lãi suất quá hạn là 10, 5%/năm là không đúng. Trong trường hợp này, Tòa án cần lấy mức lãi suất quá hạn trung bình của ít nhất ba Ngân hàng tại địa phương Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam… để tính lại tiền lãi do chậm thanh toán cho đúng quy định của pháp luật”. Cần phải khẳng định chắc chắn rằng tòa Việt Nam, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng không có thẩm quyền giải thích pháp luật. Đây là thẩm quyền độc nhất của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam, được ghi nhận tại Điều 74 của Hiến pháp Việt Nam 2013, với triết lý chủ đạo cho rằng chỉ có cơ quan dân cử đại diện ban hành pháp luật mới có thẩm quyền giải thích ý định và ý nghĩa của văn bản quy phạm pháp luật. Tính sáng tạo của các án lệ tại Việt Nam không tồn tại cũng bởi vì lý do này. Vai trò của các thẩm phán là vận dụng pháp luật, cố gắng để không áp dụng pháp luật sai, trong khi hệ thống án lệ được hình thành thì chỉ cố gắng để áp dụng chúng một cách hợp lý và đồng nhất. Điều này hoàn toàn tương phản với cách mà các thẩm phán thông luật tiếp cận văn bản quy phạm pháp luật và tranh chấp phát sinh từ các mối quan hệ xã hội. Ví dụ điển hình nhất cho năng lực sáng tạo nguyên tắc pháp lý và ảnh hưởng, thay đổi chính sách công là cách mà hệ thống án lệ Hoa Kỳ tháo bỏ dần chính sách “tách biệt nhưng bình đẳng” segregation but equal khét tiếng vào thập niên 1960. Khởi đầu là án lệ Brown v. Board of Education, 347 483 1954. Đó là một vụ kiện tập thể class action giữa các nhóm da đen thiểu số tại bốn bang Kansas, South Carolina, Virginia và Delaware, khởi kiện lên Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ yêu cầu các tiểu bang phải từ bỏ các văn bản pháp quy tiểu bang mang bản chất phân biệt đối xử, và đòi các trường học phải thành lập mô hình tuyển sinh không sử dụng sắc tộc và màu da như là một yếu tố lựa chọn học sinh. Báo chí Mỹ đưa tin về phán quyết cuối cùng trong vụ Brown kiện Ủy ban giáo dục. Thurgood Marshall cùng đội luật sư của NAACP bên ngoài Tối cao Pháp viện sau một phiên xử. Tầm ảnh hưởng của Tòa án Hoa Kỳ có thể gây ra những khuynh đảo chính trị vô tiền khoán hậu, nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của Nghị viện hay Tổng Cecilia Page/ ; Tối cao Pháp viện tuyên rằng việc tách biệt học sinh trên căn cứ sắc tộc, dù cơ sở vật chất của hai trường là ngang nhau đi chăng nữa, cũng là tước quyền được đối xử bình đẳng của trẻ em da màu, và vi phạm điều khoản bảo vệ bình đẳng trong Tu chính án 14 Equal Protection Clause of the Fourteenth Amendment. Đến năm 1955, Brown v. Board of Education, 349 294 1955 Brown II – tức án nối tiếp Brown đầu tiên, Tối cao Pháp viện bắt đầu đi sâu vào việc gây ảnh hưởng đến hệ thống pháp luật và chính sách quốc gia thông qua việc hướng dẫn các tòa án cấp dưới bảo đảm rằng phán quyết năm 1954 của mình sẽ được thực hiện. Trong án này, Tối cao Pháp viện gợi mở cho các tòa cấp dưới kiểm soát và có thể tiếp nhận những tranh chấp liên quan đến quy trình tuyển sinh / điều kiện vật chất của các trường học / hệ thống vận chuyển và đưa đón học sinh / nhân viên và chuyên viên trong nhà trường / sự thay đổi và quy hoạch lại các vùng nhập học.. và biến các tiêu chí này trở thành một bộ quy tắc quản lý giáo dục hoàn chỉnh nhằm xác định liệu quy trình tuyển sinh của tất cả trường công lập trên toàn quốc sẽ tuyển sinh và cho phép học sinh nhập học có dựa trên căn cứ sắc tộc hay màu da hay không. Và trong quá trình giải quyết, các tòa địa phương cũng sẽ cân nhắc những đề xuất chính sách từ cơ quan giáo dục có thẩm quyền để xây dựng hệ thống trường học không phân biệt đối xử hoàn thiện. Cả hai bản án không phải là những bản án áp dụng luật pháp để giải quyết tranh chấp xã hội, không phải dựa trên thẩm quyền tư pháp sẵn có, mà là giải thích sáng tạo nguyên tắc pháp lý sẵn có, thay đổi chính sách, và sau đó, là hoạch định chính sách theo phong cách của những cơ quan tư pháp. *** Sự độc lập chính trị của tòa án Điểm cuối cùng cần nhắc đến, mà theo người viết cũng là mấu chốt khiến cho án lệ tại Việt Nam sẽ không bao giờ trở thành án lệ như đúng ý nghĩa của nó tại các quốc gia thông luật, là tính độc lập giữa cơ quan tư pháp và các cơ quan quyền lực nhà nước khác. Đến đây sẽ có bạn đọc thắc mắc, tòa án Việt Nam về nguyên tắc cũng có trách nhiệm xét xử độc lập đấy thôi. Hiến pháp hay Luật tổ chức Tòa án Nhân dân 2014 đều ghi nhận cả. Tuy nhiên, độc lập này là độc lập tư pháp judicial independence, tập trung bảo đảm rằng tòa có thể xét xử một cách công bằng, không thiên vị cho bất kỳ cá nhân, tổ chức nào. Tính độc lập mà người viết nói tới đây là độc lập chính trị political independence, tức nói đến thiết chế mô hình nhà nước đảm bảo rằng các tòa án có thẩm quyền chính trị không thua kém các định chế khác. Trụ sở Tòa án Nhân dân Tối cao ở Hà Nội. Ảnh Báo Công Lý Đến đây chúng ta trở lại với với một thuật ngữ hết sức quen thuộc tam quyền phân lập. Chỉ trong mô hình chính trị mà tòa án có năng lực kiểm tra, giám sát các hoạt động của những nhánh quyền lực còn lại như hành pháp và lập pháp, chúng ta mới có thể đặt kỳ vọng vào nền tảng lý luận cho việc giải thích pháp luật, vận dụng sáng tạo nguyên tắc pháp luật cũng như sự tự tin trong sáng tạo nguyên tắc pháp lý của các thẩm phán. Với mô hình nhà nước tập trung dân chủ cực kỳ thuần túy tại Việt Nam và sự lệ thuộc gần như hoàn toàn của nhánh tư pháp vào Quốc hội, sự lấn át quyền lực gần như tuyệt đối của cơ quan hành pháp Chính phủ, ngay cả khi chúng ta mong muốn, án lệ chắc chắn cũng không thể tồn tại trong môi trường chính trị này. *** Những phân tích nói trên không nhằm phê phán cách thức án lệ mà Việt Nam đang phát triển. Như quy định tại Nghị quyết 03 về những yêu cầu của một bản án có thể được xem là án lệ, án lệ là nhằm 1. … làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau; phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể; 2. Có tính chuẩn mực; 3. Có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì phải được giải quyết như nhau. Chúng ta có thể thấy cơ quan nhà nước Việt Nam chưa bao giờ muốn xây dựng án lệ như thứ án lệ mà thế giới biết đến chúng. Vậy nên nói thẳng Án lệ tại Việt Nam không phải án lệ lại là cách tốt nhất để phân biệt giữa án lệ tại Việt Nam và án lệ vẫn đang được hệ thống pháp luật thông luật áp dụng rộng rãi ngày nay. *** Từ khóa án lệ case law np tiền lệ precedent n / tiền lệ pháp legal precedent, jurisprudence npquyền lập pháp legislative power np; quyền làm luật law-making power np luật thành văn statutory law np độc lập tư pháp judicial independence np độc lập chính trị political independence np

án lệ hoa kỳ