ảnh khoả thân nghệ thuật phương tây
Cùng Tường Vip chiêm ngưỡng một vài bộ tranh khoả thân tuyệt đẹp, tràn đầy sức sống, ắt hẳn “hút hồn” bạn ngay lần đầu tiên. Đối với tranh khỏa thân nghệ thuật hiện đại chủ yếu hướng đến nét đẹp thẩm mỹ hình thể mà nhiều người mong ước sở hữu.
Ảnh người mẫu khoả thân nghệ thuật. Admin 28/12/2021 567. Những cô nàng có thân hình lạnh bỏng, bốc lửa hết sức thích mặc những bộ đồ áo thiếu vải hay thậm chí còn khỏa thân để trưng diện, khoe mọi đường cong của cơ thể. Và số đông hình hình ảnh khỏa thân của
Túi Tote Lục Bình Vàng không chỉ có vẻ đẹp thời thượng mà còn rất tiện dụng Nhờ có thiết kế tối giản túi phù hợp với mọi
(VnMedia) - Thông số kỹ thuật đầy đủ của mẫu Samsung Galaxy S23 tiêu chuẩn đã bị rò rỉ, trong đó xác nhận một bản nâng cấp được đồn đại. Tuy nhiên, những thông tin mới về dòng Galaxy S23 cũng có một số điểm phủ nhận hoàn toàn những gì mà từ trước đến nay giới chuyên môn cũng như người dùng vẫn dự
Đầu hè cái nắng oi ả chói chang như muốn thiêu đốt làn da tôi,1 phần do cả ngày cả năm cả tháng ở trong nhà,ít khi ra đến ngoài,có đi chơi thì cũng đi buổi tối nên da đen nhanh là đúng thôi, Mai Phương Thúy táo bạo khoe ngực trắng nõnẢnh khỏa thân nghệ thuật của Mai Phương Thúy với 10 tư thế tạoMột mình
motor scoopy tidak bisa distarter dan diengkol. Khỏa thân trong tranh vừa tôn vinh cái đẹp, vừa khắc họa những quan niệm thẩm mỹ của từng thời kỳ, và sau cùng còn là một cách cho thấy sự phá cách táo bạo của từng họa "Vệ Nữ thành Urbino" thực hiện bởi danh họa người Ý Titian hồi năm 1538Trước Titian, các họa sĩ luôn khắc họa thần Vệ Nữ trong bối cảnh thiên nhiên ngoài trời, nhưng Titian đã đưa nữ thần vào... trong nhà, với bối cảnh của một lâu đài. Nữ thần có những giao tiếp với người xem tranh, ánh mắt nàng nhìn thẳng vào người xem không chút e dè khiến vẻ gợi cảm của nàng không xa cách mà gần gũi, đầy tính chủ chính là nét khác biệt rõ ràng đáng kể trong cách khắc họa của Titian. Bàn tay của trái của nữ thần cũng là một sự khắc họa đầy táo bạo. Các chuyên gia phân tích hội họa đều phải thống nhất rằng bức tranh chứa đựng sức mạnh của sự đổi thay trong cách khắc họa phụ nữ khỏa thân trong hội không còn tuân thủ theo các chuẩn mực truyền thống hay những ước lệ về thẩm mỹ. Thần Vệ Nữ trong tranh ông thực sự gần gũi, đời thường, không có vẻ đẹp xa cách, thoát tục như nhiều nàng Vệ Nữ khác trước tranh thể hiện rõ chủ nghĩa khoái lạc thay vì hướng tới một vẻ đẹp thuần khiết trong ý niệm thẩm mỹ như các tác phẩm tranh khỏa thân từng được thực hiện trước "Sự ra đời của thần Vệ Nữ" thực hiện bởi danh họa người Ý Sandro Botticelli hồi năm 1485Đây là một trong những bức tranh khỏa thân nổi tiếng nhất trong lịch sử hội họa. Tác phẩm này có tính chất "lịch sử" trong giới mỹ thuật bởi trước đó, chưa có nhân vật thần thoại nào được khắc họa ở trạng thái khỏa thân trong một tác phẩm có kích thước lớn ấn tượng như tranh này có kích thước 172,5 cm x 278,9 cm, khi ra mắt, đây được xem là một tác phẩm "vô tiền khoáng hậu" trong lịch sử hội họa phương Tây, khi nhân vật nữ khỏa thân được khắc họa ở vị trí trung tâm nổi bật trên một tác phẩm kích thước "Người đẹp tắm" thực hiện bởi họa sĩ người Pháp Jean-Auguste-Dominique Ingres hồi năm 1808Dáng ngồi này là một trong những hình ảnh gây "ám ảnh" nhất trong sự nghiệp của họa sĩ Ingres. Bức tranh khỏa thân nhìn từ phía sau lưng của người phụ nữ khắc họa một vẻ đẹp hài hòa, mộc mạc. Tác phẩm khi mới ra mắt đã phải đón nhận nhiều sự chê bai, chỉ trích, nhưng chỉ trong vòng nửa thế kỷ sau đó, người ta đã phải thay đổi cách nhìn về tác xứng đáng là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp của họa sĩ Ingres. Bức họa này được xem là một xử lý đỉnh cao của họa sĩ Ingres, ông loại bỏ đi những nét gợi cảm thái quá vốn thường xuất hiện trong các bức tranh khỏa thân mà ông thực hiện trước đây, thay vào đó, Ingres khắc họa một vẻ đẹp nhẹ nhàng, thư thái, một vẻ đẹp chân thực có sự tính này, tác phẩm được giới hội họa đánh giá cao bởi sắc màu làn da của người phụ nữ được thể hiện quá đẹp đẽ, chân thực, từng đường nét cơ thể đều gần gũi, rất mềm mại, gợi cảm. Tác phẩm được khen ngợi nhiều nhất bởi sự hài hòa cả về màu sắc, đường nét, cách thể hiện tinh tế trong khắc họa màu da và đường đi của ánh người phụ nữ đang ngồi tĩnh lặng trong một tư thế, nhưng người xem cảm thấy mọi thứ đều mềm mại, uyển chuyển, hình ảnh trong tranh chỉ như một phút ngưng lặng của thời gian và chuyển động, người ta như sắp được thấy một chuyển động khác nữa của người phụ nữ trong "Olympia" thực hiện bởi họa sĩ người Pháp Edouard Manet hồi năm 1863Dù hiện tại, tác phẩm được xem là siêu phẩm hội họa, nhưng thuở mới ra mắt và lần đầu được trưng bày triển lãm, bức tranh này đã bị phê phán rất nhiều bởi không tuân theo... "thuần phong mỹ tục".Nguyên nhân là bởi người phụ nữ xuất hiện ở tiền cảnh có một tạo dáng gợi cảm quá... điềm nhiên, nàng không có chút ngại ngần, giữ kẽ, nhân vật này lại còn... nhìn thẳng vào người xem, ánh nhìn bình thản, không chút ý nhị, e dè, tất cả toát lên một sự táo bạo quá ư lạ lẫm đối với giới hội họa đương là tranh khỏa thân, nhưng trước đó, người ta vốn luôn đòi hỏi nhân vật nữ phải toát lên vẻ đẹp thuần khiết, thanh cao. Bức "Olympia" đi ngược lại những điều đó. Hơn thế, việc người phụ nữ khỏa thân, nhưng tóc chải gọn, cài hoa, thắt nơ cổ, đeo trang sức, chân mang giày khiến người ta có những hình dung không hay về thân thế của người phụ nữ này trong cuộc sống Manet không ngần ngại khắc họa đầy đủ các chi tiết chân thực cũng như biểu cảm của người phụ nữ khiến người xem tranh đương thời tranh cãi. Thay vì khắc họa nhân vật mang vẻ đẹp thanh cao, thoát tục, Manet chủ ý đưa vào những nét chân thực của đời sống. Tác phẩm thậm chí đã từng gặp rắc rối với nhà chức trách đương thời khi tranh bị... tạm giữ một thời "Những cô gái trẻ ở Avignon" thực hiện bởi danh họa người Tây Ban Nha Pablo Picasso hồi năm 1907Những gương mặt và hình thể được khắc họa bằng những khối hình học, "Những cô gái trẻ ở Avignon" là một trong những bước đi đầu tiên của danh họa Picasso trong trường phái lập thể. Bức vẽ khắc họa những người phụ nữ khỏa thân đầy phóng túng này đã từng là một tác phẩm gây nên tranh những khắc họa của Picasso, người xem vẫn cảm nhận được sự khác biệt của từng người phụ nữ, nhưng không có nhân vật nào đẹp gợi cảm theo cách khắc họa truyền thống cả. Mọi đường nét mềm mại giờ đều biến thành những hình khối lạ mỹ mới lạ trong tác phẩm bây giờ nhìn lại có thể xem như một bước đi tiên phong khai phá một trường phái mới, nhưng đương thời, khi tác phẩm này ra mắt, đã có rất nhiều họa sĩ, nhà phê bình hội họa thể hiện sự bất bình, tức chí, Picasso đã chứng kiến ngay cả những bạn bè thân thiết trong giới hội họa cũng quay lưng với ông sau tác phẩm này, bởi họ... không thể cảm nhận được vẻ đẹp trong tác phẩm, họ coi đây là "một trò đùa tệ hại trong hội họa".Khi tác phẩm được trưng bày lần đầu, người ta còn nhìn nhận tới cả yếu tố... đạo đức trong tác phẩm. Hình ảnh 5 người phụ nữ khỏa thân với 5 dáng điệu phóng túng đã vấp phải rất nhiều nghi ngại, chỉ trích. Đó là chưa kể tên ban đầu mà họa sĩ đặt cho tác phẩm cũng khiến người đương thời phải... "nhướn mày".Bức "Khỏa thân đỏ" thực hiện bởi họa sĩ người Ý Amedeo Modigliani hồi năm 1917Đây là bức họa thành công nhất trong sự nghiệp của Amedeo Modigliani. Tác phẩm từng đạt mức giá hơn 170 triệu USD khi được rao bán tại một cuộc đấu giá tổ chức ở New York Mỹ hồi năm 2015. Đây là mức giá kỷ lục trả cho một tác phẩm của Amedeo Modigliani, bức tranh này cũng ngay lập tức nằm trong số những bức tranh đắt giá nhất được bán ra trên thị trường đấu giá nghệ phẩm "Khỏa thân đỏ" nằm trong chùm tranh khỏa thân được họa sĩ thực hiện hồi năm 1917. Trong cuộc đời mình, Amedeo Modigliani chỉ duy nhất một lần tổ chức triển lãm tranh, nhưng sự kiện ấy đã phải khép lại chóng vánh, do sự can thiệp của cảnh sát. Đó chính là khi ông trưng bày chùm tranh khỏa thân, trong đó có tác phẩm "Khỏa thân đỏ" phải hiểu rằng quan điểm thẩm mỹ đương thời đối với tác phẩm nghệ thuật vẫn còn những giới hạn nhất định mang tính thời đại. Về sau này, giới nghệ thuật đã xác nhận lại rằng bộ tranh khỏa thân của Amedeo Modigliani là một chùm tác phẩm giúp tái khẳng định, thậm chí là tái sinh chủ đề khỏa thân trong hội họa hiện đại một cách đầy đẳng cấp.
Những cô gái có thân hình nóng bỏng, bốc lửa rất thích mặc những bộ đồ thiếu vải hay thậm chí khỏa thân để trưng diện, khoe những đường cong của cơ thể. Và những hình ảnh khỏa thân của các cô gái xinh đẹp, cơ thể quyến rũ luôn được nam giới săn đón để thỏa mãn thị giác cũng như giải quyết nhu cầu sinh lý, bản năng yêu thích cái đang xem Ảnh người mẫu khỏa thân lộ 100% xem là phêNắm rõ được tâm lý này, Y Tế 24h sẽ mang đến cho bạn vô vàn những bức ảnh gái xinh khỏa thân của mọi cô gái cho các anh em tha hồ ngắm đang xem Ảnh người mẫu khoả thân nghệ thuậtGái xinh nude 100% để lộ hàngCòn gì tuyệt vời hơn khi ngắm những bức hình gái xinh siêu gợi cảm, nhìn rõ tường tận các bộ phận nhạy cảm, đẹp đẽ của cơ thể gái xinh mà không che đậy. Dưới đây là những bức hình khoe rõ cơ thể của gái nude lộ hàng, đấng mày râu nhớ “cầm máu” trước khi xinh khỏa thân trong nhà tắmHình ảnh gái xinh khỏa thân trên giườngGái xinh khỏa thân, Nude lộ hàngGái xinh nude 100% để lộ hàngGái xinh nóng bỏng Nhật BảnẢnh gái khỏa thân Trung QuốcNét đẹp phụ nữ Trung Quốc từ xưa đã khẳng định nơi đây như phương trời của gái đẹp. Họ sở hữu một vẻ đẹp đoan trang, thục nữ và giờ hiện đại hơn thì sắc đẹp của con gái Trung Quốc thậm chí không bị phai mờ mà còn lên hẳn một cái tầm đẹp hiện đại của các cô gái xứ Trung Hoa quả thật khiến cho mọi người phải thèm thuồng. Họ luôn sở hữu một “cặp giò” siêu dài, siêu thon và nuột nà từ trên xuống dưới. Bên cạnh đó, vòng 1 cũng luôn căng tràn sức sống, cặp mông thì dày, chắc minh chứng cho điều đó, hãy xem những bức ảnh gái đẹp khỏa thân dưới đâyẢnh gái xinh khỏa thân Trung QuốcGái xinh Trung Quốc lộ hàng 100%Gái đẹp Việt Nam Nude 100% không che full HDKhẳng định được nét đẹp của phụ nữ Á Đông, gái Việt Nam luôn giữ được tự hào về vẻ đẹp bên ngoài của những tấm hình trần trụi hết, không một mảnh vải hay che đậy gì, các cô gái Việt Nam đã cho thấy ngực cũng không hề tầm eo luôn thon gọn, làm điểm nhấn cho vòng 1 và vòng 3 rõ rệt. “Ngực tấn công, mông phòng thủ” chính là câu nói hài hước dành cho phụ nữ đẹp Việt Nam Nude 100% không che full HDHot Girl NudeCòn gì tuyệt vời hơn khi được ngắm gái xinh và “hàng họ” thì show ra hết cỡ, không che chắn hot girl không chỉ sở hữu gương mặt khả ái mà còn cho thấy một vòng ngực “căng tràn nhựa sống”, bất kể chàng trai nào nhìn cũng chỉ muốn “ăn” ngay. Hình ảnh những cô gái Nude xinh nhất sẽ được mang đến cho các bạn ngay sau đâyHình ảnh Hot Girl Nude xinh nhấtẢnh gái xinh khoe mông to bựNgực thật sự quyến rũ thế nhưng mông cũng không hề thua kém. Thậm chí trong vài cuộc khảo sát về câu hỏi dành cho nam giới rằng họ thấy bộ phận nào trên cơ thể của nữ giới là quyến rũ và ấn tượng mạnh với họ nhất. Thì phần trăm lớn lại nằm ở vùng mông chứ không phải cặp mông to, đầy đặn cũng là liều thuốc “kích dục” mạnh với nam giới. Hình ảnh các cô nàng chụp sắc nét vòng 3 dày cộp, cong, uốn lượn nhịp nhàng khi mặc quần lót lọt khe sẽ phô trương rõ nét những tấm hình này, nam giới đều không khỏi trầm trồ và ao ước được sờ, nắn, bóp thậm chí là đâm vào cặp mông đầy sự khêu gợi gái xinh khoe mông to bựẢnh gái xinh xăm vùng kín lộ hàngBạn có thể nhận thấy rằng, những cô nàng xăm hình lên người sẽ ẩn chứa sức quyến rũ riêng biệt. Và những cô gái lựa chọn xăm mình đều mang tính cách táo bạo. Và đặc biệt hơn khi họ xăm lên cả vùng kín của cũng biết vùng kín nhạy cảm, vùng da ở đây cũng mỏng hơn ở những nơi khác trên cơ thể. Vì thế, dám xăm lên “cô bé” là một sự mạnh bạo đến ngang tàng. Và chỉ nhìn thôi bạn cũng thấy nơi cô bé của nàng có sức hút kỳ lạ. Khi quan hệ tình dục với những bạn gái có hình xăm vùng kín, chắc hẳn sẽ có rất nhiều cảm giác mới ảnh gái xinh đầy gợi cảm khi đang tắmGái xinh khỏa thân lộ lông mu nhìn là muốn quay tayKhi nhìn đến vùng cô bé, nhất là lộ phần lỗ để các anh chàng có thể “cất cu” của mình vào thì “chim” của các chàng không “cửng” lên mới điểm ít nhúm lông mu của “bướm” nàng sẽ gây kích thích mạnh, che đậy nửa vời lỗ âm đạo để các chàng bị cuốn hút mạnh, thèm “nhỏ dãi” hết ra ảnh gái xinh khỏa thân nhìn muốn quay tayẢnh sex gái xinh không cheẢnh gái xinh không mặc quầnĐể lộ nửa thân dưới là tuyệt chiêu khêu gợi các anh nam giới dữ dội. Cặp mông cong, săn chắc cùng với làn da mịn màng, trắng trẻo, nõn nà như mông em bé khiến cho nam giới nhìn vào rạo rực hết cả người, nước miếng ứa ra không kịp thêm Phim Kinh Dị 18 + Bộ Tộc Ăn Thịt Người Kinh Dị Phim Cấm ChiếuBộ ảnh “trần trụi” của các hot girl đình đám được cung cấp ngay dưới đâyẢnh gái xinh không mặc quầnGái xinh bỏ áo ngực khoe hàng đầy cuốn hútGái xinh váy ngắn lộ hàngVũ khí bí mật của các chị em phụ nữ khi muốn gạ các anh lên giường chính là sở hữu cho mình một chiếc váy ngắn. Thế mạnh của chiếc váy này là có thể khoét sâu để lộ rõ phần ngực đồng thời lại đủ ngắn để hở ra mập mờ cặp mông và đùi nuột từ trên cứ chàng trai nào khi thấy người yêu mặc váy ngắn hở trên hở dưới thì đều không thể kìm lòng được. Hình ảnh gái xinh mặc váy ngắn tiếp theo đây sẽ khiến các chàng phải “nứng”Hình ảnh gái xinh sexy đời cuốn hútGái xinh mông to gợi cảmẢnh Hot Girl Tây nudeGái Tây luôn nổi tiếng với hàng khủng từ ngực đến cô bé. Được xếp top phụ nữ có vòng 1 khủng nhất thế giới. Do đó, không một anh chàng nào có thể từ chối khi được chiêm ngưỡng với vẻ đẹp của gái Tây nhưng để “chén” gái Tây lại không dễ dàng đâu nhé. Vì sự khác biệt về cấu tạo cơ thể nên hầu như đàn ông châu Á khó mà kết hợp ăn ý như nghiên cứu, tử cung gái Tây nằm khá sâu trong khi đó kích thước dương vật của nam giới châu Á chỉ vào khoảng 13cm. Chưa kể đến một số nước được thống kê rằng là quốc gia nam giới có “súng” khá nhỏ và khiêm tốn. Khi quan hệ tình dục mà ngắn quá, không tới thì cuộc yêu mang tính chất tấu hài hơn thế, gái Tây cũng chỉ thích hợp với trai Tây – “khoai” to, dài khi đâm mới gây thỏa gái Tây đầy gợi cảmẢnh Hot Girl Tây mông to sexyẢnh gái Tây với cặp mông khủng bốGái xinh sexy mặc bikiniNếu như khỏa thân “toàn tập” làm các chàng hứng không chịu nổi thì việc diện bikini cũng làm cho các chàng đứng ngồi không trụi cũng có cái hay nhưng nó là bước cuối cùng thì hay hơn cả. Việc mặc bikini góp phần gợi cảm bởi nó tạo sự hờ hững, úp mở. Mà những chỗ càng che đậy thì càng thu hút sự chú ý hơn phải không nào?.Do đó, bikini là “sát thủ vô hình”, “hại” các chàng trai trong vài nốt nhạc, bị mê hoặc và chìm đắm, bỏng mắt, nóng người nếu thấy được “bóng hồng” bikini thướt xinh hở hang, sexy mặc bikiniGái xinh ăn mặc thiếu vải cuốn hút ánh mắt người nhìnGái xinh khoe hàngNhững cô gái tự tin và tự hào về cơ thể sẽ không ngần ngại Show nó với công chúng. Bạn có thể bắt gặp những tấm ảnh trên các trang cá nhân mạng xã hội của không ngần ngại khoe thân, tung những tấm hình bốc lửa về body của mình. Khiến các chàng trai của chúng ta lướt thấy không thể bỏ lỡ, ngắm nghía hồi lâu thậm chí muốn “ăn tươi nuốt sống”, liếm lên màn hình cho thỏa mãn cơn khát trong đó, không chỉ gái ngành mới lộ liễu khoe thân mà những cô nàng có cá tính mạnh bạo cũng có thể đăng tải những bức hình của cơ thể nhằm khoe với cả nam giới và các cô gái khác về các vòng cơ thể chuẩn siêu mẫu của mình, chứ không mang tính gạ gẫm quan hệ tình dục hay gợi nhiên, các anh nam giới làm sao không bị “nứng” khi thấy những bức hình gái xinh khoe hàng này ảnh gái xinh khoe hàngGái Việt nửa kín nửa hở đầy gợi cảmNhững hình ảnh nóng bỏng của gái NhậtNhững cô gái Nhật Bản tuy nhỏ nhưng “có võ”, họ sở hữu vòng một “siêu cấp”.Điển hình trong việc sản xuất những bộ phim người lớn, Nhật Bản đã cho thấy chất lượng gái nước mình quả không tồi. Những diễn viên siêu hạng cho ngành công nghiệp JAV mà hầu như các anh nam giới từ mới lớn đến trưởng thành đều đã từng ít nhiều xem bộ phim 18+ ra, họ có cặp mông đẫy đà, tròn trịa mà nhìn thôi là muốn đâm vào rồi. Hơn nữa, khả năng làm chuyện ấy của họ rất giỏi, vô cùng điêu luyện và làm cho các chàng sung sướng.
NAĐSO - Do môi trường địa lý tự nhiên khác nhau, do quá trình phát triển lịch sử, truyền thống văn hoá, ý thức thẩm mỹ và triết lý nghệ thuật của Trung Quốc với phương tây khác nhau, cho nên cách thể hiện trong tác phẩm của nhiếp ảnh gia Trung Quốc với nhiếp ảnh gia phương tây cũng khác nhau. Tác phẩm Tề Bạch Thạch 1956 Tác giả Trịnh Cảnh KhangTriết lý thẩm mỹ truyền thống Trung Quốc đã đóng một vai trò quan trọng trong ý thức thể hiện thẩm mỹ của các nhiếp ảnh gia Trung Sự khác biệt giữa Trung Quốc và phương tây trong mối quan hệ giữa con người với thiên nay đề tài của Nghệ thuật nhiếp ảnh Trung quốc rất rộng lớn. Có thể nói, mọi đề tài mà Nghệ thuật nhiếp ảnh phương tây thể hiện, hầu như đều được nhiếp ảnh gia Trung Quốc thực hiện. Tuy nhiên, chúng ta rất ngạc nhiên khi phát hiện sự khác biệt giữa Trung Quốc với phương tây vô cùng lớn. Nội dung chụp của người phương tây chủ yếu là con người chân dung, khoả thân và sinh hoạt. Đặc biệt khoả thân được coi là nhiếp ảnh truyền thống. Còn ở Trung Quốc nhiếp ảnh khoả thân từ trước tới nay không phải là chủ đề sáng tác của các nhiếp ảnh gia. Năm 1930 có tác phẩm “Thiền” của Lang Tĩnh Sơn, từ đó nhiếp ảnh khoả thân ở Trung Quốc chỉ lẻ tẻ có trong giới nhiếp Trung Quốc nhiếp ảnh phong cảnh đã trở thành Nghệ thuật nhiếp ảnh chủ đạo. Trái ngược với điều này, trong lịch sử nhiếp ảnh phương tây, nhiếp ảnh phong cảnh chưa bao giờ chiếm một vị trí quan trọng. Bào Côn nói “Ansel Adams người được công nhận là bậc thầy về nhiếp ảnh phong cảnh, trong thực hành nhiếp ảnh của mình, điều quan trọng nhất đối với ông là nghiên cứu “phơi sáng cục bộ” và cách vận dụng phương pháp này. Nỗi trăn trở và tận dụng các tính năng kỹ thuật nhiếp ảnh làm cho tác phẩm của ông trở nên khác biệt.”Chúng ta có thể tìm hiểu những lý do của sự khác biệt giữa các chủ đề, qua các khía cạnh xã hội, chính trị, lịch sử… Nhưng lý do cơ bản nhất về sự khác biệt lớn giữa Trung Quốc và phương tây là quan niệm về mối quan hệ giữa con người với thiên phương tây, quan hệ con người đối lập với thiên nhiên. Người phương tây cho rằng, con người vừa là một phần của thiên nhiên vừa là sản phẩm đặc biệt của thiên nhiên. Họ nhấn mạnh con người làm chủ thiên nhiên, họ đã nuôi dưỡng đặc tính chinh phục thiên nhiên từ thời cổ phản ánh ý thức thẩm mỹ, nó thường là mối quan hệ đối nghịch giữa chủ thể thẩm mỹ với khách thể thẩm mỹ. Đối với thiên nhiên con người luôn giành chiến thắng. Cho nên, đối tượng biểu hiện chính không phải thiên nhiên mà là con người. Trong thời kỳ cổ điển và phục hưng phương tây, nghệ thuật khoả thân luôn chiếm một vị trí quan Trung Quốc, quan hệ giữa con người với thiên nhiên là sự hài hòa thống nhất. Người Trung Quốc coi quan hệ giữa con người với thiên nhiên là một bộ phận không thể tách rời, con người với thiên nhiên là hai trong một. Trong phản ánh ý thức thẩm mỹ, chủ thể thẩm mỹ nằm trong khách thể thẩm mỹ, khách thể hoà vào chủ thể, khiến cả hai đối tượng trở thành “Thiên nhân hợp nhất”. Hơn nữa, đối tượng biểu hiện chính của nghệ thuật Trung Quốc cổ đại là sơn thuỷ. Những tác phẩm sơn thuỷ trong thi, hoạ ở Trung Quốc có từ rất sớm, xuất hiện từ thời Tấn, Tống, vào cuối thế kỷ 4 và đầu thế kỷ 5. Ở phương tây, thiên nhiên được coi là đối tượng độc lập. Thế kỷ 17 nó mới xuất hiện trong hội hoạ ở Hà Lan và đến thế kỷ 18 mới xuất hiện ở Anh và Đức. Truyền thống văn hoá Trung Quốc, phản ánh vẻ đẹp của sự hoà hợp giữa con người với thiên nhiên, đã có tác động rất lớn cho đến nay, truyền cảm hứng cho các nhiếp ảnh gia Trung Quốc, bằng ý chí vượt qua những ngọn núi và dòng sông để bày tỏ tình yêu của họ về núi và sông quê Ngữ Đường có một đoạn văn nói về sự khác biệt giữa các đối tượng biểu hiện nghệ thuật Trung Quốc với phương tây “…Nghệ thuật sống động của Trung Quốc, bắt nguồn từ sơn thuỷ; Nghệ thuật sống động của phương tây, bắt nguồn từ người phụ nữ”.Người phương tây nghĩ đến “Chiến thắng”, “Tự do”, “Hoà bình”, “Công lý” là liên tưởng đến hình ảnh người nữ, mà không phải người nam? Người Trung Quốc không thể hiểu được! Người Trung Quốc thích hoạ một hòn đá kỳ lạ, rồi treo nó lên tường, hằng ngày ngắm nhìn và liên tưởng đường nét ngoại hình của nó với núi đồi trong thiên nhiên, người phương tây hoàn toàn không phẩm Hoàng Sơn sau cơn mưa 1954Tác giả Hoàng Tường02. Phương thức nghệ thuật phản ánh thế giới giữa Trung Quốc với phương tây khác nhau, tạo thành thủ pháp biểu hiện Nghệ thuật nhiếp ảnh có trọng tâm khác nhau Tả thực hay tả ý?Thuật nhiếp ảnh là sản phẩm của khoa học, các nhiếp ảnh gia Trung Quốc và phương tây đều sử dụng ánh sáng, đường nét và màu sắc để tạo ra hình ảnh trực quan ba chiều trong không gian hai chiều. Điều này là như nhau, tuy nhiên thể hiện trong sáng tạo nghệ thuật các nhiếp ảnh gia Trung Quốc và phương tây lại có những cách khác đỉnh Hoàng Sơn, khi trời nắng, các nhiếp ảnh gia phương tây đã tập trung để ghi lại đường nét của cây thông, ghi lại sự thay đổi ánh sáng và bóng tối trên đỉnh núi. Trong khi các nhiếp ảnh gia Trung Quốc nghỉ ngơi trong khách sạn. Tuy nhiên, khi đám mây đen xà xuống và cơn mưa ập đến, các nhiếp ảnh gia phương tây tránh mưa trong khách sạn, trong khi các nhiếp ảnh gia Trung Quốc lại vội vã lên núi, để sau mưa chụp những mảng mây trắng bồng bềnh vờn quanh sườn núi như cảnh thần ngữ nhiếp ảnh được kết hợp chặt chẽ giữa triết học với khoa học. Nghệ thuật nhiếp ảnh phương tây sử dụng khoa học để thể hiện hình ảnh chân thực cuộc sống. Sự phát triển của khoa học và công nghệ như quang học, hoá học và vật liệu cảm quang đóng một vai trò quan trọng trong sự ra đời và phát triển của nhiếp ảnh. Bố cục, màu sắc và thẩm mỹ đã trở thành một phần quan trọng trong lý thuyết Nghệ thuật nhiếp nhiếp ảnh gia phương tây muốn có một tác phẩm tốt đã rất công phu trong bố cục, luật phối cảnh và hiệu quả sáng tối. Lý Nguyên cho rằng, Ansel Adams sử dụng một máy ảnh khổ lớn để làm nổi bật độ sắc nét. Và độ sắc nét đó đã vượt ngưỡng của thị giác, do đó hình ảnh của nó trở nên khô cứng. Ảnh dưới.Tác phẩm Người đàn ông đi xe đạp xuống phố Hyères 1932Tác giả Henri Cartier BressonTác phẩm Núi Tetons và sông Snake 1942Tác giả Ansel AdamsNghệ thuật tạo hình ở Trung Quốc liên quan đến triết học. Ảnh hưởng của tam giáo là Nho, Phật, Đạo đã tạo nên hai luồng tư tưởng. Tác động đến quá trình trải nghiệm và tích luỹ nghệ thuật của nghệ thuật gia, đồng thời cũng ảnh hưởng đến phương pháp sáng tạo nghệ thuật của nghệ thuật gia, đó là tả thực hay tả tín đồ Nho giáo, sẽ coi trọng tả thực; Là tín đồ của Phật, Lão giáo, khi sáng tạo nghệ thuật có xu hướng tả ý. Các họa gia Trung Quốc khi lựa chọn nội dung và tư duy hình tượng, thường “lấy hình” làm cái cớ để “tả ý”. Truyền thống đó ảnh hưởng rất lớn đến các nhiếp ảnh gia Trung Quốc. Lưu Bán Nông gọi đó là “Nhiếp ảnh tả ý”. Lang Tĩnh Sơn sử dụng phương pháp tả ý đó, đã in một tuyển tập nhiếp ảnh mà trong đó những tác phẩm như “Cây mùa xuân ở Kỳ Phong”, “Sáng sớm ra sông gánh nước”, “Cô gái chèo thuyền dưới hàng tơ liễu”… đã được các nhiếp ảnh gia tên tuổi trên thế giới khen ngợi; Hồ Bá Tường với tác phẩm “Chiều về Thạch Thành”; Lã Chúng Khổ với tác phẩm “Tuyết dày trên vai”; Ngô Trung Hành với tác phẩm “Đàn gia súc trở về”… cho đến những tác giả đương đại như Ngao Ân Hồng, Trần Phục Lễ, Giản Khánh Phúc, Viên Liêm Dân đều đã sáng tác tác phẩm nhiếp ảnh tả ảnh là ngôn ngữ quốc tế. Cho dù không có văn tự thuyết minh, đa phần các dân tộc khác nhau trên thế giới cũng có thể đọc được nội dung qua ánh sáng, đường nét, sắc màu của tác phẩm. Các nhiếp ảnh gia Trung Quốc trong thế kỷ 21 hấp thụ những phẩm chất văn hoá nhiếp ảnh tốt đẹp của các dân tộc trên thế giới, kết hợp với văn hoá truyền thống Trung Hoa, sáng tạo ra những tác phẩm xứng tầm với thời Trọng Mậu
Nền tảng của lịch sử nghệ thuật có thể bắt nguồn từ hàng chục nghìn năm khi các nền văn minh cổ đại sử dụng các kỹ thuật và phương tiện sẵn có để mô tả các chủ đề có ý nghĩa văn hóa. Nhiều phong trào nghệ thuật đã ra đời, mỗi phong trào mang những phong cách và đặc điểm riêng biệt phản ánh nền chính trị và xã hội của thời kỳ mà chúng xuất dù bạn là một nhà sưu tập đầy tham vọng hay chỉ là một nhà phê bình nghệ thuật thì việc nghiên cứu các chuyển động chính của lịch sử nghệ thuật là một điểm đáng để bắt đầu. Các thể loại nghệ thuật có ảnh hưởng từ thời Phục hưng đến sự trỗi dậy của chủ nghĩa Hiện đại chắc chắn đã ghi dấu ấn trong lịch sử. Với nhiều nghệ sĩ ngày nay như Banksy, Kerry James Marshall, Mickalene Thomas và Kehinde Wiley luôn truyền tải các tham chiếu lịch sử nghệ thuật vào các tác phẩm đương đại, việc hiểu được bối cảnh lịch sử và ý nghĩa của từng thời kỳ và phong trào là rất quan trọng đối với các nhà sưu tập cũng như những người đam mê nghệ thuật. Dưới đây là dòng thời gian toàn diện của các phong trào nghệ thuật khám phá các đặc điểm, những người đóng góp hàng đầu và những ảnh hưởng quan trọng của từng thời kỳ nổi bật trong lịch sử nghệ thuật phương Tây. Nghệ thuật Tiền sử ~ trước Công nguyên Nguồn gốc của lịch sử nghệ thuật có thể được bắt nguồn từ thời Tiền sử, trước khi các ghi chép bằng văn bản được lưu giữ. Các hiện vật sớm nhất đến từ thời kỳ đồ đá cũ, hoặc thời kỳ đồ đá cũ, dưới dạng chạm khắc trên đá, bản khắc, hình ảnh, tác phẩm điêu khắc và sắp xếp đá. Nghệ thuật từ thời kỳ này dựa vào việc sử dụng các chất màu tự nhiên và chạm khắc trên đá để tạo ra các hình tượng đại diện cho các đồ vật, động vật và các nghi lễ chi phối sự tồn tại của một nền văn minh. Một trong những ví dụ nổi tiếng nhất là những bức tranh hang động thời kỳ đồ đá cũ được tìm thấy trong các hang động phức tạp của Lascaux ở Pháp. Mặc dù được phát hiện vào năm 1940, chúng được ước tính lên đến năm tuổi và mô tả các loài động vật và thảm thực vật lớn trong khu vực. Tranh vẽ trên tường đá tại hang Lascaux, Pháp Nghệ thuật cổ đại trước Công nguyên - 400 trước Công nguyên Nghệ thuật cổ đại được tạo ra bởi các nền văn minh tiên tiến, trong trường hợp này là những nền văn minh có ngôn ngữ viết lâu đời. Những nền văn minh này bao gồm Lưỡng Hà, Ai Cập, Hy Lạp và châu Mỹ. Phương tiện của một tác phẩm nghệ thuật từ thời kỳ này khác nhau tùy thuộc vào nền văn minh đã tạo ra nó, nhưng hầu hết các tác phẩm nghệ thuật đều phục vụ các mục đích tương tự kể chuyện, trang trí các đồ vật hữu dụng như bát/ vũ khí, hiển thị hình ảnh tôn giáo và biểu tượng, thể hiện địa vị xã hội. Nhiều tác phẩm mô tả những câu chuyện về những người cai trị, các vị thần và các nữ thần. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất từ thời Lưỡng Hà cổ đại là Bộ luật Hammurabi. Được tạo ra vào khoảng năm 1792 trước Công nguyên, tác phẩm mang một bộ luật của người Babylon được khắc trên đá, được trang trí bởi hình ảnh của Vua Hammurabi- vị vua thứ sáu của Babylo và vị thần Lưỡng Hà, Shabash. Bộ luật Hammurabi, sáng tác 1792 TCN Nghệ thuật Trung cổ 500–1400 Thời kỳ Trung cổ, thường được gọi là “Thời kỳ đen tối”, đánh dấu một thời kỳ suy thoái kinh tế và văn hóa sau sự sụp đổ của Đế chế La Mã vào năm 476 sau Công nguyên. Phần lớn các tác phẩm nghệ thuật được sản xuất trong những năm đầu của thời kỳ này phản ánh bóng tối đó, đặc trưng bởi hình ảnh kỳ cục và khung cảnh tàn bạo. Nghệ thuật được sản xuất trong thời gian này tập trung xung quanh Nhà thờ. Khi thiên niên kỷ đầu tiên trôi qua, các nhà thờ được trang trí cầu kỳ và công phu hơn đã xuất hiện; cửa sổ và bóng được tô điểm bằng các chủ đề và cảnh trong Kinh thánh từ thần thoại cổ điển. Thời kỳ này cũng là nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của các bản thảo được chiếu sáng và phong cách kiến trúc Gothic. Các ví dụ rõ ràng về nghệ thuật có ảnh hưởng từ thời kỳ này bao gồm hầm mộ ở Rome, Hagia Sophia ở Istanbul, Tin mừng Lindisfarne, một trong những ví dụ nổi tiếng nhất về bản thảo được chiếu sáng, và Notre Dame, một nhà thờ lớn ở Paris và là ví dụ nổi bật của kiến trúc Gothic. "Thánh giá" của Cimabue, sáng tác năm 1288 Nghệ thuật Phục hưng 1400–1600 Phong cách hội họa, điêu khắc và nghệ thuật trang trí này được đặc trưng bởi sự tập trung vào thiên nhiên và chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng về con người là độc lập và tự chủ. Mặc dù những lý tưởng này xuất hiện vào cuối thời Trung cổ, nhưng chúng đã phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ 15 và 16, song song với những thay đổi xã hội và kinh tế như thế tục hóa. Thời kỳ Phục hưng đạt đến đỉnh cao ở Florence, Ý, một phần lớn là nhờ Medici, một gia đình thương gia giàu có, người kiên quyết ủng hộ nghệ thuật và chủ nghĩa nhân văn, một loạt các niềm tin và triết lý đặt trọng tâm vào thế giới con người. Nhà thiết kế người Ý Filippo Brunelleschi và nhà điêu khắc Donatello là những nhà sáng tạo quan trọng trong thời kỳ này. Thời kỳ Phục hưng Cao, kéo dài từ năm 1490 đến năm 1527, đã sản sinh ra những nghệ sĩ có ảnh hưởng như Leonardo da Vinci, Michelangelo và Raphael, mỗi người đều mang lại sức mạnh sáng tạo và những lý tưởng đi đầu về biểu hiện cảm xúc. Tác phẩm nghệ thuật trong suốt thời kỳ Phục hưng được đặc trưng bởi chủ nghĩa hiện thực, chú ý đến chi tiết và nghiên cứu chính xác về giải phẫu con người. Các nghệ sĩ đã sử dụng phối cảnh tuyến tính và tạo ra chiều sâu thông qua ánh sáng và bóng đổ cường độ cao. Nghệ thuật bắt đầu thay đổi về mặt phong cách ngay sau thời kỳ Phục hưng cao, khi những xung đột giữa đức tin Cơ đốc và chủ nghĩa nhân văn nhường chỗ cho Chủ nghĩa đàn ông. Trường học Athens của Raphael, sáng tác năm 1511 Mannerism 1527–1580 Các nghệ sĩ theo trường phái Mannerist xuất hiện từ những lý tưởng của Michelangelo, Raphael và các nghệ sĩ Hậu Phục hưng khác, nhưng sự tập trung vào phong cách và kỹ thuật của họ vượt trội hơn ý nghĩa của chủ đề này. Thông thường, các nhân vật có dáng người duyên dáng, chân tay thon dài, đầu nhỏ, các nét cách điệu và các chi tiết phóng đại. Điều này mang lại những sáng tác phức tạp hơn, cách điệu hơn thay vì dựa trên những lý tưởng cổ điển về bố cục hài hòa và phối cảnh tuyến tính được sử dụng bởi những người tiền nhiệm thời Phục hưng của họ. Một số nghệ sĩ Mannerist nổi tiếng nhất bao gồm Giorgio Vasari, Francesco Salviati, Domenico Beccafumi, và Bronzino, người được nhiều người coi là họa sĩ Mannerist quan trọng nhất ở Florence trong thời gian của ông. "Venus, Cupid, tinh nghịch và thời gian" của hoạ sĩ Bronzino, sáng tác năm 1540 Baroque 1600–1750 Thời kỳ Baroque theo sau Chủ nghĩa Manne đã tạo ra nghệ thuật thị giác và kiến trúc trang trí công phu, vượt trội. Nó được đặc trưng bởi sự hùng vĩ và phong phú, được nhấn mạnh bởi sự quan tâm đến việc mở rộng trí tuệ con người và khám phá toàn cầu. Các nghệ sĩ Baroque rất phức tạp về mặt phong cách. Các bức tranh Baroque được đặc trưng bởi kịch tính, như được thấy trong các tác phẩm mang tính biểu tượng của họa sĩ Ý Caravaggio và họa sĩ Hà Lan Rembrandt. Các họa sĩ đã sử dụng sự tương phản mạnh mẽ giữa sáng và tối và có những tác phẩm tràn đầy năng lượng được kết hợp bởi các bảng màu phong phú. Caravaggio, Lời kêu gọi của thánh Matthew, 1600 Rococo 1699–1780 Rococo có nguồn gốc ở Paris, bao gồm nghệ thuật trang trí, hội họa, kiến trúc và điêu khắc. Thẩm mỹ mang đến một phong cách nghệ thuật trang trí nhẹ nhàng hơn so với sự hoa mỹ của Baroque. Rococo được đặc trưng bởi sự nhẹ nhàng và thanh lịch, tập trung vào việc sử dụng các hình thức tự nhiên, thiết kế không đối xứng và màu sắc tinh tế. Các họa sĩ như Antoine Watteau và Francois Boucher đã sử dụng các phương pháp xử lý nhẹ nhàng, bút vẽ phong phú và màu sắc tươi mới. Phong cách Rococo cũng dễ dàng chuyển sang đồ nội thất bằng bạc, sứ và Pháp. Nhiều chiếc ghế và áo giáp có hình dạng uốn lượn, thiết kế hoa văn và cách sử dụng mạ vàng một cách biểu cảm. Antoine Watteau, Chuyến tàu đến Cythera, 1718 Tân cổ điển 1750–1850 Như tên gọi của nó, thời kỳ Tân cổ điển dựa trên các yếu tố từ thời cổ đại cổ điển. Những tàn tích khảo cổ của các nền văn minh cổ đại ở Athens và Naples được phát hiện vào thời điểm đó đã khơi dậy niềm đam mê đối với mọi thứ trong quá khứ, và các nghệ sĩ nỗ lực tái tạo những tác phẩm nghệ thuật cổ đại tuyệt vời. Điều này dẫn đến mối quan tâm mới đối với những lý tưởng cổ điển về sự hài hòa, đơn giản và tỷ lệ. Các nghệ sĩ tân cổ điển đã bị ảnh hưởng bởi các yếu tố cổ điển; đặc biệt là tập trung vào chủ nghĩa duy tâm. Chắc chắn, họ cũng đưa vào các tác phẩm của mình những miêu tả hiện đại, phù hợp với lịch sử. Ví dụ, nhà điêu khắc người Ý Antonio Canova đã dựa trên các yếu tố cổ điển trong các tác phẩm điêu khắc bằng đá cẩm thạch của mình, nhưng tránh sự giả tạo lạnh lùng vốn được thể hiện trong nhiều sáng tạo ban đầu này. Jacques-Louis David, Napoléon Vượt qua dãy Alps, 1801 Chủ nghĩa lãng mạn 1780–1850 Chủ nghĩa lãng mạn là hiện thân của nhiều lĩnh vực, từ hội họa, âm nhạc đến văn học. Những lý tưởng hiện hữu trong mỗi loại hình nghệ thuật này từ chối trật tự, sự hài hòa và tính hợp lý, vốn đã được chấp nhận trong cả nghệ thuật cổ điển và chủ nghĩa tân cổ điển. Thay vào đó, các nghệ sĩ lãng mạn nhấn mạnh vào cá nhân và trí tưởng tượng. Một lý tưởng lãng mạn xác định khác là sự đánh giá cao đối với thiên nhiên, với nhiều người chuyển sang vẽ tranh bằng không khí, đưa các nghệ sĩ ra khỏi nội thất tối và cho phép họ vẽ bên ngoài. Các nghệ sĩ cũng tập trung vào niềm đam mê, cảm xúc và cảm giác hơn trí tuệ và lý trí. Các họa sĩ lãng mạn nổi tiếng bao gồm Henry Fuseli, người đã tạo ra những bức tranh kỳ lạ, rùng rợn khám phá những khoảng tối của tâm lý con người, và William Blake, người có những bài thơ và hình ảnh bí ẩn truyền tải những tầm nhìn thần bí và sự thất vọng của anh ấy trước những ràng buộc của xã hội. William Blake, Bóng ma của một con bọ chét, 1820 Chủ nghĩa hiện thực 1848–1900 Có thể cho rằng phong trào nghệ thuật hiện đại đầu tiên, Chủ nghĩa hiện thực, bắt đầu ở Pháp vào những năm 1840. Chủ nghĩa hiện thực là kết quả của nhiều sự kiện phong trào chống lãng mạn ở Đức, sự trỗi dậy của báo chí và sự ra đời của nhiếp ảnh. Mỗi bức ảnh đều khơi dậy niềm yêu thích mới trong việc nắm bắt chính xác cuộc sống hàng ngày. Sự chú ý đến độ chính xác này thể hiện rõ ràng trong tác phẩm nghệ thuật được tạo ra trong quá trình chuyển động, trong đó có các mô tả chi tiết, giống như cuộc sống của đối tượng. Một trong những nhà lãnh đạo có ảnh hưởng nhất của phong trào Hiện thực là Gustave Courbet, một nghệ sĩ người Pháp cam kết chỉ vẽ những gì anh ta có thể nhìn thấy. Jean-François Millet, The Gleaners, 1857 Tân nghệ thuật 1890–1910 Art Nouveau, có nghĩa là “Nghệ thuật mới”, đã cố gắng tạo ra một phong trào hoàn toàn đích thực không có bất kỳ sự bắt chước nào của các phong cách đi trước nó. Phong trào này ảnh hưởng nhiều đến nghệ thuật ứng dụng, đồ họa và minh họa. Nó tập trung vào thế giới tự nhiên, được đặc trưng bởi những đường dài, khúc khuỷu và những đường cong. Các nghệ sĩ theo trường phái Tân nghệ thuật có ảnh hưởng đã làm việc trên nhiều phương tiện truyền thông, bao gồm kiến trúc, thiết kế đồ họa và nội thất, chế tác đồ trang sức và hội họa. Nhà thiết kế đồ họa người Tiệp Khắc Alphonse Mucha nổi tiếng với những tấm áp phích sân khấu của nữ diễn viên người Pháp Sarah Bernhardt. Kiến trúc sư và nhà điêu khắc người Tây Ban Nha Antoni Gaudi đã vượt ra ngoài việc tập trung vào các đường nét để tạo ra những công trình uốn lượn, có màu sắc rực rỡ như của Vương cung thánh đường Sagrada Familia ở Barcelona. Alphonse Mucha, Công chúa Hyacinth, 1911 Trường phái ấn tượng 1865–1885 Các họa sĩ trường phái ấn tượng đã tìm cách ghi lại ấn tượng tức thì của một khoảnh khắc cụ thể. Điều này được đặc trưng bởi các nét vẽ ngắn, nhanh chóng và cảm giác giống như bản phác thảo chưa hoàn thành. Các nghệ sĩ trường phái ấn tượng đã sử dụng cuộc sống hiện đại làm chủ đề của họ, vẽ các tình huống như vũ trường và thuyền buồm thay vì các sự kiện lịch sử và thần thoại. Claude Monet, một nghệ sĩ người Pháp, người dẫn đầu ý tưởng thể hiện nhận thức của con người trước thiên nhiên, gần như đồng nghĩa với phong trào Trường phái ấn tượng. Các tác phẩm đáng chú ý của ông bao gồm The Water Lily Pond 1899, Woman with a Parasol 1875, và Impression, Sunrise 1872, từ đó tên của phong trào được bắt nguồn từ chính nó. Claude Monet, Ấn tượng, Mặt trời mọc, 1899 Chủ nghĩa hậu ấn tượng 1885–1910 Các họa sĩ theo trường phái Hậu ấn tượng làm việc độc lập chứ không phải là một nhóm, nhưng mỗi họa sĩ theo trường phái Hậu ấn tượng có ảnh hưởng đều có những lý tưởng tương tự. Họ tập trung vào những tầm nhìn chủ quan và những ý nghĩa mang tính biểu tượng, cá nhân hơn là những quan sát về thế giới bên ngoài. Điều này thường đạt được thông qua các hình thức trừu tượng. Các họa sĩ theo trường phái Hậu ấn tượng bao gồm Georges Seurat, được chú ý với kỹ thuật vẽ bằng điểm nhấn sử dụng các chấm nhỏ, riêng biệt để tạo thành một hình ảnh. Vincent van Gogh cũng được coi là một họa sĩ theo trường phái Hậu ấn tượng, tìm kiếm sự thể hiện cá nhân thông qua nghệ thuật của mình, thường là qua những nét vẽ thô kệch và tông màu tối. Georges Seurat, Một buổi chiều Chủ nhật trên Đảo La Grande Jatte, 1886 Fauvism 1900–1935 Được dẫn dắt bởi Henri Matisse, Fauvism được xây dựng dựa trên các ví dụ của Vincent van Gogh và George Seurat. Là phong trào tiên phong đầu tiên của thế kỷ 20, phong cách này được đặc trưng bởi việc sử dụng biểu cảm của màu sắc, đường kẻ và nét vẽ mãnh liệt, cảm giác táo bạo về thiết kế bề mặt và bố cục phẳng. Như đã thấy trong nhiều tác phẩm của chính Matisse, sự tách biệt của màu sắc khỏi mục đích mô tả, đại diện của nó là một trong những yếu tố cốt lõi hình thành nên phong trào này. Chủ nghĩa Fauvism là tiền thân quan trọng của Chủ nghĩa Lập thể và Chủ nghĩa Biểu hiện. Henri Matisse, Người phụ nữ đội mũ, 1905 Chủ nghĩa biểu hiện 1905–1920 Chủ nghĩa biểu hiện nổi lên như một phản ứng đối với các quan điểm thế giới ngày càng mâu thuẫn và sự mất mát của tâm linh. Nghệ thuật biểu hiện tìm cách vẽ từ bên trong nghệ sĩ, sử dụng sự biến dạng của hình thức và màu sắc mạnh để thể hiện những lo lắng và cảm xúc thô sơ. Các họa sĩ theo trường phái biểu hiện, trong hành trình tìm kiếm tính xác thực, đã tìm kiếm cảm hứng ngoài nghệ thuật phương Tây và thường xuyên lui tới các bảo tàng dân tộc học để thăm lại các truyền thống dân gian bản địa và nghệ thuật bộ lạc. Nguồn gốc của Chủ nghĩa Biểu hiện có thể được bắt nguồn từ Vincent van Gogh, Edvard Munch và James Ensor. Các nhóm nổi bật bao gồm Die Brücke The Bridge và Der Blaue Reiter The Blue Rider được thành lập để các nghệ sĩ có thể xuất bản các tác phẩm và thể hiện lý tưởng của họ cùng nhau. Edvard Munch, Vũ điệu của cuộc sống, 1900 Chủ nghĩa lập thể 1907–1914 Chủ nghĩa lập thể được thành lập bởi Pablo Picasso và Georges Braque, những người bác bỏ khái niệm rằng nghệ thuật nên sao chép tự nhiên. Họ rời xa các kỹ thuật và quan điểm truyền thống; thay vào đó, họ tạo ra các đối tượng phân mảnh hoàn toàn thông qua sự trừu tượng hóa. Nhiều tác phẩm của họa sĩ Lập thể được đánh dấu bằng các bề mặt phẳng, hai chiều, các dạng hình học hoặc “hình khối” của các đối tượng và nhiều điểm thuận lợi. Thông thường, đối tượng của họ thậm chí còn không thể nhận biết được. Georges Braque, Violin và Palette, 1909 Chủ nghĩa siêu thực 1916–1950 Chủ nghĩa siêu thực xuất hiện từ phong trào nghệ thuật Dada vào năm 1916, trưng bày các tác phẩm nghệ thuật bất chấp lý trí. Những người theo chủ nghĩa siêu thực đã tố cáo tư duy duy lý. Họ đổ lỗi cho quá trình suy nghĩ này về các sự kiện như Thế chiến thứ nhất và tin rằng nó có thể kìm nén những suy nghĩ giàu trí tưởng tượng. Những người theo chủ nghĩa siêu thực chịu ảnh hưởng của Karl Marx và các lý thuyết được phát triển bởi Sigmund Freud, người đã khám phá ra phân tâm học và sức mạnh của trí tưởng tượng. Các nghệ sĩ theo trường phái Siêu thực có ảnh hưởng như Salvador Dalí đã đánh vào tâm trí vô thức để miêu tả những điều thú vị trên đường phố và trong cuộc sống hàng ngày. Các bức tranh của Dalí đặc biệt ghép những giấc mơ sống động và kỳ lạ với độ chính xác lịch sử. René Magritte, Con người, 1964 Chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng những năm 1940 - 1950 Được định hình bởi di sản của Chủ nghĩa Siêu thực, Chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng xuất hiện ở New York sau Thế chiến thứ hai. Nó thường được gọi là Trường học New York hoặc bức tranh hành động. Những họa sĩ và nhà điêu khắc trừu tượng này đã thoát khỏi những gì được coi là thông thường, và thay vào đó sử dụng tính ngẫu hứng và ngẫu hứng để tạo ra các tác phẩm nghệ thuật trừu tượng. Điều này bao gồm các tác phẩm có kích thước khổng lồ mà kích thước của nó không còn có thể đáp ứng được bằng giá vẽ. Thay vào đó, các tấm bạt sẽ được đặt trực tiếp trên sàn nhà. Các họa sĩ theo trường phái Biểu hiện Trừu tượng nổi tiếng bao gồm Jackson Pollock, được biết đến với phong cách vẽ nhỏ giọt độc đáo và Mark Rothko, người có các bức tranh sử dụng các khối màu lớn để truyền tải cảm giác tâm linh. Jackson Pollock, Nhịp điệu mùa thu Số 30, 1950 Op Art 1950s – 1960 Nổi lên nhờ những tiến bộ trong khoa học và công nghệ cũng như mối quan tâm đến hiệu ứng quang học và ảo ảnh, phong trào Op art viết tắt của nghệ thuật “quang học” đã ra mắt cùng với Le Mouvement, một cuộc triển lãm nhóm tại Galerie Denise Rene vào năm 1955. Các nghệ sĩ tích cực trong phong cách này đã sử dụng hình dạng, màu sắc và hoa văn để tạo ra hình ảnh có vẻ như đang chuyển động hoặc bị mờ, thường được tạo bằng màu đen và trắng để có độ tương phản tối đa. Những mẫu trừu tượng này nhằm mục đích gây nhầm lẫn và kích thích mắt. Nghệ sĩ người Anh Bridget Riley là một trong những người thực hành Op Art nổi bật nhất. Tác phẩm nghệ thuật năm 1964 của cô Blaze có các đường thẳng ngoằn ngoèo màu đen và trắng tạo ra ảo giác về một ngôi nhà tròn. Bridget Riley, Blaze, 1964 Nghệ thuật đại chúng 1950-1960 Nghệ thuật đại chúng là một trong những bước phát triển nghệ thuật dễ nhận biết nhất của thế kỷ 20. Phong trào này đã chuyển đổi khỏi các phương pháp được sử dụng trong Chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng, và thay vào đó, sử dụng các đồ vật bình thường, hàng ngày để tạo ra các phẩm nghệ thuật sáng tạo thách thức chủ nghĩa tiêu dùng và phương tiện truyền thông đại chúng. Việc giới thiệu hình ảnh có thể nhận dạng này là một sự thay đổi từ hướng đi của chủ nghĩa hiện đại. Các nghệ sĩ nhạc pop như Andy Warhol và Roy Lichtenstein đã tìm cách thiết lập ý tưởng rằng nghệ thuật có thể vẽ từ bất kỳ nguồn nào và không có hệ thống phân cấp văn hóa nào có thể phá vỡ điều đó. Có lẽ tác phẩm nghệ thuật văn hóa đại chúng nổi tiếng nhất là sản xuất Warhol’s Campbell’s Soup Cans. Andy Warhol, Campbell's Soup Cans, 1962 Arte Povera những năm 1960 Dịch theo nghĩa đen là “nghệ thuật kém”, Arte Povera đã thách thức các hệ thống đương đại, theo chủ nghĩa hiện đại bằng cách đưa các vật liệu thông thường vào các tác phẩm sáng tạo. Các nghệ sĩ đã sử dụng đất, đá, giấy, dây thừng và các yếu tố khác bằng đất để gợi lên cảm giác tiền công nghiệp. Do đó, nhiều tác phẩm đáng chú ý trong phong trào này là tác phẩm điêu khắc. Nghệ sĩ Ý Mario Merz, kết hợp với các nghệ sĩ Ý khác như Giovanni Anselmo và Alighiero Boetti, đã tạo ra các tác phẩm chống tinh hoa bằng cách vẽ dựa trên các chất liệu từ cuộc sống hàng ngày. Giáp’s Igloo năm 1968 của ông, một trong những cái sẽ sớm trở thành chuỗi lều tuyết đặc trưng của ông, tập trung vào công việc của ông với những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống chỗ ở, hơi ấm và thức ăn. Mario Merz, Giap’s Igloo, 1968 Chủ nghĩa tối giản những năm 1960 - 1970 Phong trào Minimalist nổi lên ở New York khi một nhóm nghệ sĩ trẻ bắt đầu nghi ngờ về các tác phẩm biểu cảm thái quá của các nghệ sĩ theo trường phái Biểu hiện Trừu tượng. Nghệ thuật tối giản thay vào đó tập trung vào tính ẩn danh, kêu gọi sự chú ý đến tính trọng yếu của tác phẩm. Các nghệ sĩ kêu gọi người xem tập trung vào chính xác những gì đang ở trước mặt họ, thay vì vẽ ra sự tương đồng với thực tế bên ngoài và những suy nghĩ xúc động thông qua việc sử dụng các hình thức tinh khiết, trật tự, đơn giản và hài hòa. Nghệ sĩ người Mỹ Frank Stella là một trong những người sớm nhất áp dụng Chủ nghĩa tối giản, tạo ra những bức tranh không mang tính đại diện, như trong Những bức tranh đen của ông được hoàn thành từ năm 1958 đến năm 1960. Mỗi bức tranh đều có họa tiết các sọc nằm nghiêng có chiều rộng đồng đều được in bằng mực đen kim loại. Frank Stella, Black Series I, 1967 Nghệ thuật khái niệm những năm 1960 - 1970 Nghệ thuật khái niệm hoàn toàn bác bỏ các phong trào nghệ thuật trước đó và các nghệ sĩ đánh giá cao ý tưởng hơn các thành phần thị giác, tạo ra nghệ thuật từ các buổi biểu diễn, con thiêu thân và các hình thức khác. Nghệ sĩ biểu diễn người Ba Lan Ewa Partum’s Active thơ bao gồm các chữ cái trong bảng chữ cái đơn lẻ của cô ấy rải rác trên nhiều phong cảnh khác nhau. Nghệ sĩ người Mỹ Joseph Kosuth đã khám phá khả năng sản xuất và vai trò của ngôn ngữ trong nghệ thuật, như đã thấy trong tác phẩm Một và Ba chiếc ghế năm 1965 của ông. Trong đó, ông đại diện cho một chiếc ghế theo ba cách khác nhau để thể hiện những ý nghĩa khác nhau của cùng một đồ vật. Bởi vì loại hình nghệ thuật này tập trung vào ý tưởng và khái niệm, không có phong cách hoặc hình thức riêng biệt. Joseph Kosuth, Một và Ba Ghế, 1965 Nghệ thuật đương đại 1970 – nay Những năm 1970 đánh dấu sự khởi đầu của nghệ thuật đương đại, kéo dài cho đến ngày nay. Thời kỳ này bị chi phối bởi nhiều trường phái khác nhau và các phong trào nhỏ hơn đã xuất hiện. Chủ nghĩa hậu hiện đại Để chống lại chủ nghĩa hiện đại, các nghệ sĩ đã tạo ra các tác phẩm phản ánh sự hoài nghi, mỉa mai và phê bình triết học. Nghệ thuật nữ quyền Phong trào này nảy sinh trong một nỗ lực nhằm biến đổi những định kiến và phá vỡ khuôn mẫu của một lịch sử nghệ thuật do nam giới thống trị. Chủ nghĩa Biểu hiện Neo Các nghệ sĩ đã tìm cách làm sống lại các khía cạnh ban đầu của Chủ nghĩa Biểu hiện và tạo ra các tác phẩm lớn, có tính biểu cảm cao. Nghệ thuật đường phố Các nghệ sĩ như Keith Haring, Jean-Michel Basquiat, Barry McGee, Banksy và nhiều nghệ sĩ khác đã tạo ra nghệ thuật giống như graffiti trên các bề mặt ở những nơi công cộng như vỉa hè, tòa nhà và cầu vượt. Thế hệ Hình ảnh Các nghệ sĩ Cindy Sherman, Louise Lawler, Gary Simmons và những người khác bị ảnh hưởng bởi nghệ thuật Khái niệm và Đại chúng đã thử nghiệm với hình ảnh dễ nhận biết để khám phá những hình ảnh định hình nhận thức của chúng ta về thế giới. Nghệ thuật chiếm đoạt Phong trào này tập trung vào việc sử dụng các hình ảnh trong nghệ thuật với ít sự biến đổi so với hình thức ban đầu của chúng. Nghệ sĩ trẻ người Anh YBA Nhóm nghệ sĩ London này nổi tiếng với việc sẵn sàng gây sốc cho khán giả thông qua hình ảnh của họ và sẵn sàng vượt qua giới hạn của sự chỉnh tề. Họ cũng được biết đến với tinh thần kinh doanh, nhiệt huyết. Nghệ thuật kỹ thuật số Sự ra đời của máy ảnh đã giúp ích cho việc thực hành nghệ thuật này, cho phép các nghệ sĩ sử dụng nghệ thuật và công nghệ truyền để tạo ra với các phương tiện như máy tính, phần mềm âm thanh và hình ảnh, âm thanh và pixel. Jeff Koons, Michael Jackson và Bubbles, 1988 Các phong trào nghệ thuật trong suốt lịch sử của nghệ thuật phương Tây đã cung cấp một loạt các phong cách, kỹ thuật và phương tiện truyền thông đa dạng và có ảnh hưởng trên toàn cầu. Mỗi phong trào làm sáng tỏ các tác phẩm hội họa điêu khắc, kiến trúc đặc biệt và các tác phẩm tiêu biểu khác. Hiểu được dòng thời gian của lịch sử nghệ thuật và từng thời kỳ đã ảnh hưởng như thế nào đến các phong trào sau này là điều tối quan trọng để xây dựng một bộ sưu tập gắn kết, chu đáo. Nguồn Biên dịch Biên tập Trang Hà
Các nhà lịch sử nghệ thuật đã thống nhất với nhau rằng, “Vệ nữ ngủ” 1510 chính là bức tranh phụ nữ nằm khoả thân đầu tiên trong lịch sử hội hoạ phương Tây.“Vệ nữ ngủ” cũng là một trong những tác phẩm nghệ thuật đẹp nhất, gợi cảm nhất, với hình ảnh của người phụ nữ được tôn vinh là Vệ nữ, trong vai trò của nữ thần tình yêu, là biểu tượng cho cái đẹp của thời đại ấy. Đó là một trong những tác phẩm cuối cùng của Giorgione 1477-1510, hoạ sĩ hàng đầu của trường phái Phục hưng của thành phố Venezia Venice, với những tên tuổi đã có ảnh hưởng rất lớn đến nghệ thuật thế giới trong thời kì ấy ở nước đã vẽ bức tranh này trong những năm cuối đời của mình và khi chết vào năm 1510, bức tranh chưa hoàn thành. Nó được học trò của ông là Tiziano Vecellio hay Titian, theo cách phiên âm tiếng Anh vẽ nốt những phần còn lại, là phong cảnh phía sau lưng của nàng Vệ nữ đang nằm ngủ. Chính bức tranh này sau đó 33 năm đã truyền cảm hứng để Tiziano vẽ nên một tuyệt tác khác về nàng Vệ nữ khoả thân nằm trên giường, bức “Vệ nữ thành Urbino”.Nhưng bức “Vệ nữ ngủ” thì lại đặc biệt ở chỗ, đó là bức tranh đầu tiên vẽ một người phụ nữ trong tư thế đó và bức tranh khá lớn, cao hơn 1 mét và dài 1,75 mét, và dù cho đến hiện tại, vẫn gây ra một vài tranh cãi trong các nhà nghiên cứu về việc ai trong Giorgione và Tiziano đóng góp nhiều hơn trong tác phẩm này, nó đã tạo ra nhiều ấn tượng đặc nghiên cứu Joseph Friedberg chỉ ra rằng, chính tư thế thoải mái và thư giãn của Vệ nữ khi ngủ và khung cảnh thiên nhiên với màu sắc khá êm dịu cho thấy sự giao hoà giữa con người và vạn vật. Nàng nằm ngủ một mình và đó chính là sự khác biệt lớn nhất giữa tác phẩm này với một số tác phẩm khác cùng thời khi mô tả những nữ thần trong thần thoại Hy Lạp và La Mã đang ngủ, nhưng có một ai đó nữa được vẽ trong tranh, là những người đã phát hiện ra họ ngủ, hoặc đơn giản là đang ngồi và ngắm nhà phân tích cũng chỉ ra rằng, ở gần nàng Vệ nữ có một vài bông hoa phong quỳ, một loài hoa đã xuất hiện như một ý ẩn dụ trong thần thoại Hy Lạp về Vệ nữ và Adonis, chàng thợ săn đẹp trai đã bị nữ thần Artemis sai một con lợn rừng hoang giết chết vì ghen tị với sự giỏi giang trong đi săn của nữ trong thần thoại Hy Lạp chính là nàng Aphrodite yêu chàng và vô cùng đau khổ vì cái chết của chàng. Khi chàng chết, Vệ nữ đã tưới rượu tiên lên máu chàng và từ đó nở ra hoa phong quỳ anemone. Theo nhà phân tích Anthony Colantuono, thì bông hoa ấy ám chỉ rằng, nàng ngủ và mơ về chàng Adonis điển trai mà nàng đang yêu say đắm.“Vệ nữ ngủ”, và sau đó “Vệ nữ thành Urbino” 1534 đã có ảnh hưởng rất lớn đến nhiều hoạ sĩ khác trong hàng thế kỉ sau đó. Những người phụ nữ khoả thân, với các dáng nằm khác nhau, nhưng không được vẽ theo kiểu gợi dục, đã được rất nhiều hoạ sĩ thể hiện, từ Bronzino, Gentileschi cho đến sĩ Pháp theo trường phái lãng mạn Ingres thì lại chọn một cách thể hiện khác. Ông không mô tả nàng Vệ nữ trong một ẩn dụ về vẻ đẹp mang tính thanh cao, đẹp đẽ, lột tả vẻ đẹp của người phụ nữ, mà ông vẽ một phụ nữ trong đời thường, có lẽ là nữ cung tần hoặc một nàng kĩ nữ trong bức “Grande Odalisque”.Trong khi đó, hoạ sĩ bậc thầy của trường phái Ấn tượng Manet thì gây chấn động với bức Olympia, thể hiện một nàng kĩ nữ đang nhìn thẳng vào người xem, như đang thách thức và rất tự hào về sự khêu gợi của lại với bức “Vệ nữ ngủ”, đó là một vẻ đẹp khác, thánh thiện và mang tính ước lệ rất nhiều. Đó là cách mà các hoạ sĩ thời Phục hưng đã vẽ những người phụ đó, người ta vẫn vẽ về Đức mẹ Maria, các chủ đề về tôn giáo liên quan đến Đức mẹ và Chúa Jesus rất phổ biến, nhưng phần lớn các tác phẩm khác có hình ảnh về người phụ nữ đều mô tả các nhân vật trong thần thoại Hy Lạp và La Mã cũng như những câu chuyện trong Kinh điều, cách mô tả về người phụ nữ đã rất khác thời Trung Cổ, bởi vào thời Phục Hưng, khi một làn sóng nghệ thuật tìm về các giá trị nhân bản và triết học của thời Hy Lạp cổ đại diễn ra, người ta bắt đầu ca ngợi cái đẹp của con người trong vẻ trần trụi của họ, giống như rất nhiều bức tượng khoả thân của Hy Lạp cổ đã mô với việc các hoạ sĩ hiểu kĩ hơn về giải phẫu học khi nghiên cứu cơ bắp của các xác chết và tỉ lệ các bộ phận cơ thể người được tôn vinh khi người ta tìm ra được lý thuyết về sự hoàn hảo của cái đẹp, các tác phẩm vẽ người trở nên đẹp hơn, thật hơn, sống động về người phụ nữ 500 năm trước, trong các tác phẩm như của Giorgione hay Tiziano, Raffaello hoặc Leonardo da Vinci, sự ước lệ vẫn tồn tại. Họ đề cao vẻ đẹp của người phụ nữ có vẻ mũm mĩm về da thịt và ngoài gương mặt xinh đẹp và thánh thiện thì cơ thể của nàng khoẻ mạnh. Họ coi đó là những người phụ nữ lí tưởng cho việc làm mẹ, làm vợ và là hiện thân của cái đẹp mang tính thời giờ, 5 thế kỉ đã trôi qua, nhiều quan niệm về cái đẹp đã thay đổi, và đã từng có thời kì mốt người dây xuất hiện, nhưng xét cho cùng, trong thế giới hiện đại những người phụ nữ không chỉ đẹp về hình thể và gương mặt, có da có thịt, khoẻ mạnh, mà còn giàu tri thức và có tính độc lập cao…Xem thêm Diana sau khi tắm’ của Francois Boucher – Kiệt tác nghệ thuật Rococo–
ảnh khoả thân nghệ thuật phương tây